Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Phượt Mù Căng Chải

Từ TP.HCM, cả ba chúng tôi khoác ba lô Bắc tiến. Hành trang chỉ vài bộ quần áo gọn nhẹ, nhưng lại đầy đủ đồ nghề chụp ảnh với sự hào hứng chuẩn bị được khám phá Mù Căng Chải - một bức tranh đẹp của vùng Tây Bắc.

< Quang cảnh ghi được trên đường từ Hà Nội đi Nghĩa Lộ.

Tới Hà Nội, anh tài xế trẻ trung, phong trần đón chúng tôi với chiếc SUV bụi bặm, có khả năng vượt địa hình tuyệt vời. Bạn đồng hành với chúng tôi là chiếc điện thoại có cài VietMap, bản đồ chỉ đường.

Mù Cang Chải, đôi khi viết là Mù Căng Chải là một huyện của tỉnh Yên Bái. Phía bắc Mù Cang Chải giáp huyện Văn Bàn của tỉnh Lào Cai, phía nam giáp huyện Mường La của tỉnh Sơn La, phía tây giáp huyện Than Uyên của tỉnh Lai Châu, phía đông giáp huyện Văn Chấn cùng tỉnh. Huyện nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao 1.000 m so với mặt biển.

Huyện có 1 thị trấn là thị trấn Mù Cang Chải (huyện lị), và 13 xã: Kim Nọi, Hồ Bốn, Chế Tạo, Khao Mang, Dế Xu Phình, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Púng Luông, Nậm Khắt, Mồ Dề, Nậm Có, La Pán Tẩn và Lao Chải.

Châu Mụ Cang Chải (theo cách viết ngày xưa) được thành lập ngày 18/10/1955, thuộc Khu tự trị Thái Mèo, gồm 13 xã: Hô Bơn, Khau Mang, Lao Chai, Pu Mun, Mô Đê, Kim Noi, Chè Cu Nha, La Pan Tay, Gieo Su Phinh, Pung Luông (từ châu Than Uyên), Cao Pha (từ châu Văn Chấn), Nậm Khát, Hiêu Trai (từ châu Mường La).

< Thung lũng Tú Lệ, quê hương của đặc sản nếp Tú Lệ.

Các thửa ruộng bậc thang ở ba xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Zế Xu Phình đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng là danh thắng quốc gia.

Trở về chuyến đi: Xuất phát từ Hà Nội, qua một loạt địa danh như Sơn Tây, Việt Trì, Phú Thọ rồi đến Nghĩa Lộ (điểm dừng chân đầu tiên của nhóm) với những rừng cam trĩu quả hai bên đường.

< Ruộng bậc thang Tú Lệ.

Trước khi chinh phục đèo Khau Phạ, câu ca “Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò” đã níu chân chúng tôi dừng lại lang thang ở thung lũng Tú Lệ (thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) - nằm giữa ba ngọn núi Khau Phạ, Khau Thán, Khau Song, nơi người dân chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái hiền hoà.

Do đặc thù của khí hậu, nên một năm, người dân vùng cao chỉ trồng duy nhất một vụ lúa. Vào tháng 5-6, khi trời mưa xuống, họ dẫn nước cho ruộng, khi tất cả các thửa ruộng đã đầy nước cũng là thời gian bắt đầu cày ải, gieo mạ, cấy lúa. Tháng 9 -10 là thu hoạch.

< Đèo Khau Phạ, một trong những cung đường đèo quanh co trên đường đến Mù Căng Chải.

Những thửa ruộng  loang loáng nước, kết hợp với mây núi xanh cao vời vợi tạo nên bức tranh phong cảnh đẹp không kém phần hấp dẫn so với những thửa ruộng bậc thang nổi tiếng khác. Đây cũng chính là thời điểm nhiều du khách háo hức khám phá ruộng bậc thang Tú Lệ.


< Đường lên cổng trời Khau Phạ.

Đèo Khau Phạ là một trong những cung đường đèo quanh co và dốc đứng thuộc hàng bậc nhất nước ta. Trong tiếng dân tộc Thái, Khau Phạ có nghĩa là Sừng Trời (chiếc sừng núi nhô lên tận trời), có người còn gọi đây là Cổng Trời.

Khau Phạ là thử thách lớn đầu tiên mà anh em chúng tôi phải chinh phục. Núi tiếp núi, đèo tiếp đèo, nhiều phen tim chúng tôi như ngưng đập khi xe qua những khúc cua khuỷu tay nguy hiểm.

< Ruộng bậc thang Mù Căng Chải.

Có khi lặng người trước vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng, rồi lại reo lên sung sướng như con trẻ khi cảm nhận được rõ nét sự thay đổi của độ cao.

Mù Căng Chải đón chúng tôi bằng những thửa ruộng bậc thang huyền ảo trong sương sớm, xanh thắm khi nắng lên và vàng rực dưới bóng chiều tà. Những thửa ruộng như tầng tầng nếp gấp của đất, đầy cảm xúc, sâu thẳm và suy tư...

6 giờ tối, chúng tôi đã đến điểm cuối của hành trình.
Mù Căng Chải một huyện nằm ở phía tây của tỉnh Yên Bái, cách thành phố Yên Bái 180 km theo quốc lộ 32. Đây là khu vực núi cao bắt nguồn từ dãy Hoàng Liên Sơn, bao gồm nhiều dãy núi liên tiếp nhau chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.

Trong bữa cơm bụi buổi tối, trò chuyện với chị chủ quán niềm nở mời khách phương xa, biết anh em chúng tôi có ý định chụp những bức hình về ruộng bậc thang, chị khuyên mọi người hãy ghé thăm bản Nậm Khắt.

< Đường vào bản Nậm Khắt.

Và dù  lịch trình ban đầu không định đến địa điểm này, nhưng do lời giới thiệu quá nhiệt tình và đầy hấp dẫn của chị chủ quán, chúng tôi cùng quyết định 4 giờ sáng tìm đường ngược vào thung lũng Nậm Khắt.

Bình minh vùng cao thật đặc biệt. Bên này núi mặt trời đã mọc, rải xuống sườn núi những tia nắng chói chang; nhưng khi xe đi vòng qua núi để vào Nậm Khắt thì mặt trời mới bắt đầu ló dạng trên thung lũng này. Nậm Khắt trong sương sớm lung linh, huyền ảo, đẹp đến nao lòng.

< Trên thửa ruộng bậc thang, vẫn còn hình ảnh con trâu đi trước cái cày theo sau.

Mù Căng Chải cuốn hút bởi những thửa ruộng bậc thang. Mù Căng Chải có 700 ha ruộng bậc thang, trong đó hơn 47% tập trung ở 3 xã: La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Dế Su Phình. Năm 2007, ruộng bậc thang ở ba xã này đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia.

< Khi người lớn ra đồng thì lũ trẻ chơi tha thẩn trong bản, đứa lớn trông đứa nhỏ, chúng tụ tập thành nhóm chơi đùa.

Tháng Năm là thời điểm bắt đầu đổ nước vào ruộng để chuẩn bị cho một mùa lúa mới. Chúng liên tục được thay áo mới: màu xanh của mạ non, của lúa đến thì con gái.

Và khoảng cuối tháng Chín đến đầu tháng Mười, Mù Căng Chải khoác lên mình bộ áo rực rỡ nhất, vàng rực màu lúa chín. Đây chính là thời điểm đẹp nhất.

Nhóm chúng tôi đến vào đúng thời điểm bà con đang bắt đầu một vụ mùa mới. Tuy không được thấy những thửa ruộng bậc thang với màu xanh tươi mát của mạ non, lúa trổ đòng, hay màu lúa chín vàng rực rỡ; nhưng chính vì vậy mà chúng tôi lại có dịp chiêm ngưỡng một vẻ đẹp khác của ruộng bậc thang. Hoành tráng và kỳ bí như một công trình kiến trúc.

< Ruộng bậc thang như những tác phẩm điêu khắc trên đất.

Cởi bỏ lớp áo màu, chúng khoe vẻ tự nhiên, hoang sơ, mộc mạc vốn có của đất mẹ, càng nhìn ta lại càng cảm được nghệ thuật "điêu khắc trên đất" của người nông dân như ai đó đã từng ví von.

- Theo Chí Mỹ (iHay.Thanhnien), Wikipedia

Dòng sông bóng xế

Có một dòng sông mà rất nhiều thân phận lúc tuổi già bóng xế đã tìm về đây nương tựa và dòng sông đã cưu mang họ lúc tuổi xế chiều.

Sông Hoài, đoạn cuối của dòng Thu Bồn ở Quảng Nam, ôm trong mình phố cổ Hội An, là dòng sông như vậy.

“Đi không chú, dạo quanh sông chụp ảnh đẹp lắm. 20.000 đồng thôi!” - giọng run run, bà Lái vừa mời khách, vừa lấy cái thau nhôm tát nước ra khỏi lòng thuyền. Vừa khuấy nhẹ tay chèo vừa nhai trầu bỏm bẻm, bà Lái chẳng cần nhìn dòng sông, không cần nhìn mũi thuyền mà thuyền vẫn lướt đi rất êm. Ở cái tuổi 74, hơn 40 năm chèo lái trên khúc sông này, bà Lái thuộc làu từng con nước.

“Cha mẹ sinh tôi ở cuối sông này, bãi Truồi gần biển Cửa Đại ấy! Rồi chiến tranh, loạn lạc, bệnh tật, ông bà chết sớm, anh em cũng chết, tôi chèo thuyền trên sông này từ trước giải phóng tới chừ” - bà Lái nói.

Thuyền ngược nước nhẹ nhàng chui qua cầu An Hội rồi tiến thẳng đến chùa Cầu. Ở đó, gần chục chiếc thuyền con với những người phụ nữ đội nón lá đang cắm thuyền chờ khách.

Hai du khách bước qua thuyền bà Quyền, rồi thuyền ngược nước chậm rãi về phía chùa Cầu. Bà Quyền trông già hơn bà Lái, nhưng dáng người còn nhanh nhẹn. Cười bằng hàm răng khuyết chỉ còn hai chiếc cuối cùng nơi khóe môi, bà Quyền nói tiếng Anh bằng giọng Quảng, vừa đưa hai ngón tay: “Hế lô! Cho hai đô!”. Bà Lái kể rằng cuộc đời của bà Quyền cũng kém may mắn như bao phụ nữ khác trôi dạt về khúc sông này. Không chồng, không con, côi cút trên chiếc thuyền tre từ tuổi đôi mươi.

Chúng tôi theo bà Lái về đến nhà, những người hàng xóm cũng kéo đến thăm. Chị Đặng Thị Hương kể rằng căn nhà nhỏ của bà Lái là nơi tá túc của nhiều người phụ nữ chèo thuyền nơi bến sông. “Mùa đông, mấy bà cắm thuyền rồi ghé vào đây chơi. Mùa hè căn nhà thấp lè tè này nóng quá, ba bốn bà rủ nhau ra thuyền cắm sào ở bến sông mà ngủ” - chị Hương kể. Có hôm nửa đêm gặp mưa, ba bốn bà ôm nhau bì bõm lội từ bến sông về nhà.

Vào mùa đông, khi con nước từ đầu nguồn Thu Bồn đổ về ngập các đường phố Hội An cũng là lúc mùa chèo thuyền của các bà đắt khách. “Tây nó thích dầm nước lắm.

Nước ngập đường Trần Phú, Bạch Đằng là hắn leo lên thuyền bảo mình chống chèo quanh quanh để chụp ảnh” - bà Lái nói. Cùng một phường, nhưng cuộc sống của các cư dân trên bờ và dưới nước cách biệt nhau. Nếu như những cư dân trên bờ của Hội An sở hữu những căn nhà cổ vô giá, có thu nhập bình quân mấy ngàn đôla Mỹ mỗi năm thì những người chèo thuyền có thân phận bèo bọt ngược lại... Tuy nhiên họ lại là một trong những “điểm nhấn” của phố Hội. Không có họ dòng sông trở nên hoang vắng. Rõ ràng mấy bà lão này đã là một phần linh hồn của dòng sông.

Không có những người lái đò tuổi bóng xế này, cũng như không có dòng sông, con đò, góc phố và những đôi quang gánh hàng rong trong các con phố đầy rêu thì Hội An không còn là Hội An nữa, và khi ấy du khách hẳn có lý do để từ bỏ lòng yêu thích đối với thành phố di sản này.

Hoa đăng trên sông Hoài

Vào những đêm rằm, những gì gọi là tinh túy nhất của Hội An được “khoe” với du khách. Lễ hội đêm rằm là sự sáng tạo của người dân phố cổ về phục hồi không gian xưa và tái hiện hoạt động của cư dân nơi này trong những năm đầu thế kỷ 20, khi nơi đây là một cảng thị sầm uất.

Nếu đèn lồng là ánh mắt dịu dàng, đằm thắm của đêm phố cổ thì hoa đăng sông Hoài thật sự là một lễ hội của ánh sáng. Với người Hội An, thả hoa đăng đã thật sự là một thú chơi nghệ thuật, là món quà tặng du khách khi đến tham quan phố cổ vào những ngày lễ hội.

Ngày bình thường, những người thợ thủ công cắt, gấp, dán giấy thành nhiều đóa hoa đa sắc để sẽ thắp sáng chúng trong lễ hội. Hoa đăng được chuyển lên thuyền, đợi lúc nước ròng thả xuống dòng sông. Chỉ cần thả ở đầu dòng nước, chúng sẽ tự khắc trôi đều trên khắp mặt sông.

Theo dòng nước, hoa đăng lúc kết thành từng chùm, từng vạt, lúc nối thành bè, khi tách rời, xé lẻ từng chiếc tạo thành dòng sông rực sáng dọc theo dãy phố. Vài thảm hoa đăng sau khi diễu hành trên sông thì dìu nhau vào gần bờ, hắt lên thứ ánh sáng dìu dịu đủ thấy rõ những gương mặt thích thú, hân hoan của du khách đang say sưa ngắm nhìn.

Dù ngồi trên những bậc thềm của phố cổ hay trong những quán xá bên kia sông Hoài, du khách đều hướng về dòng sông lung linh hoa đăng, thưởng thức những làn điệu dân ca xứ Quảng trên sân khấu nổi hay trên chiếc thuyền văn hóa.

Hoa đăng đêm lễ hội không chỉ mang đến một nét đẹp của Hội An cho du khách muôn phương mà còn là cách cư dân nơi đây gửi gắm những ước nguyện đến thế giới linh thiêng, cầu mong một cuộc sống luôn no ấm, bình yên và hạnh phúc.

- Theo Tấn Vũ (báo Tuổi Trẻ) và nhiều nguồn thông tin + ảnh khác trên internet

Lên Tây Bắc ăn nhót xanh cuốn bắp cải

Có lẽ người miền xuôi lên Tây Bắc quá ấn tượng với món nhót xanh cuốn bắp cải, rau mùi, chấm với “chẳm chéo”, cho nên cứ truyền tai nhau rằng lên Tây Bắc phải tìm ăn bằng được món “chẳm chéo”.

Kỳ thực, “chẳm chéo” là tên của một món chấm, còn ăn nhót, ăn mận, ăn sim cùng “chẳm chéo” người Thái (Tây Bắc) gọi chung là ăn chua (Kin Xổm).

Món đặc trưng nhất là bắp cải cuốn nhót. Món ăn đã làm nên đặc trưng của người Thái. Đầu tiên là phải chọn những chùm nhót xanh vừa thành quả chưa lâu. Có người thích ăn quả thật non, nhưng có lẽ nhót đạt tiêu chuẩn nhất là khi vừa đủ tầm, không non quá mà cũng không già quá, lớp phấn chỉ mới trăng trắng.

Quả nhót phải xanh mướt, hơi mềm mềm, chưa mọng nước và chua rôn rốt, lại cũng thoảng qua vị chát nữa! Xong nhót rồi, bạn cần chọn những lá bắp cải vừa tầm, không già, không non quá, trắng nõn nà. Thêm vài lát tỏi, lá rau mùi, ít gừng thái lát nữa là được.

Quan trọng nhất là bát nước chấm, chắc ngoài Tây Bắc không đâu có: bát “chẳm chéo” là sự hòa quyện của những: tỏi khô, (nhưng phải đúng là tỏi Tây Bắc mới có mùi, vị cay đặc trưng, tỏi tàu - củ to, mọng nước không ra vị của nó), gừng, ớt, rau mùi… tất cả đều giã nhuyễn, trộn vào chút nước mắm hoặc muối, mì chính hoặc một chút đường.

Thế rồi khi đã tề tựu đông đủ, tất cả nguyên liệu được bày ra, mọi người quây quần lại cắt nhót, cắt bắp cải, đặt những miếng nhót, rau mùi, lá tỏi xanh non mỡ màng, miếng gừng vàng ươm, từ từ cuốn vào lá bắp cải và khẽ chấm vào bát chéo, vừa ăn vừa râm ran những chuyện trên trời dưới biển...

Người Thái ăn chua không thể ăn một mình, phải có bạn, phải túm năm tụm ba. Là món ăn dân giã nên có khi người ta đứng mà ăn cũng được, vừa ăn vừa cười nói, những câu chuyện tếu táo như là một thứ gia vị đặc biệt khiến món ăn ngon hơn. Nếu cứ yên lặng mà ăn thì mất thú, mà vừa ăn lại vừa xuýt xoa vì vị chua của quả kết hợp với vị cay nồng của các gia vị khác nó mới ngon! Thú ăn vặt này đôi khi lại là biện pháp hữu hiệu để tăng thêm tình đoàn kết, gắn bó giữa mọi người.

Nếu bạn là một khách lạ đến thăm đúng lúc tập thể đang ăn chua, tất nhiên mọi người chẳng thể nào để bạn quay ra hay ngồi thu lu một góc cả, người ta sẽ mời nhiệt tình. Và bạn hãy cứ xà vào, cũng phải cuốn, chấm, xuýt xoa, cũng cười đùa hối hả. Thế là chỉ sau mấy phút bỡ ngỡ bạn đã có thể trò chuyện với họ như đã quen nhau lâu lắm rồi. Tình người nhiều khi hiển hiện đơn giản chỉ trong một món ăn chơi...

- Theo An ninh Thủ đô, internet

Thác Vũ Môn: Nơi chép hóa rồng.

Thác Vũ Môn nằm trên dãy núi Giăng Màn (Khai Trướng), ở phía Tây Nam huyện Hương khê (Hà Tĩnh) với độ cao 1.700m so với mực nước biển.

Theo truyền thuyết, đây là chỗ hàng năm cá Chép thi vượt thác để được hóa thành Rồng: "Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt Thác Vũ Môn".

Thác Vũ Môn có 3 cấp nước, mỗi cấp nước có hình chài, dài khoảng 40m, rộng khoảng 20m. Thác Vũ Môn như một dải lụa mềm trắng vắt qua núi tuyệt đẹp và tiếng nước chảy ngân vang khắp một vùng. Ở đây không khí ẩm ướt, quanh năm như chìm trong sương mù, nhiệt độ về mùa hè rất mát mẻ khoảng từ 18-20°C .

< Sông Tiêm: dòng sông cổ tích của truyền thuyết 'cá gáy hóa rồng'. Ngược dòng sông này thêm 3km, bạn sẽ đến được chân thác Vũ Môn. Hiện nay, Hà Tĩnh đang làm đường du lịch lên đây.

Câu chuyện cá Chép hoá Rồng không biết có từ thời nào nhưng sách Đại Nam nhất thống chí đã ghi lại là: "Tương truyền hàng năm, cứ đến ngày Tám tháng Tư, cá Chép vượt suối này, con nào vượt được thì hoá Rồng. Phường Chài thường bảo nhau mấy ngày trước không bủa chài lưới. Đúng ngày ấy thì chỗ này mây mù dày đặc, không ai dám đến gần".

Huyện thoại cá chép hoá rồng gần với điều kiện thời tiết, thiên nhiên và do đó gắn với đời sống của nhân dân nơi đây. Nếu vào ngày đó trời mưa, nước thác về nhiều thì cá vượt thác và hoá rồng được, đồng nghĩa với mưa thuận gió hoà, được mùa năm đó. Nếu không thì ngược lại, một năm đại hạn khốn khó, phải phòng bị.

Hiện nay, Thác Vũ Môn đang là địa điểm khám phá ưa thích của các bạn trẻ, là một tiềm năng du lịch trong tương lai nếu được đầu tư, khai thác tốt.

- Theo blog Phúc Anh HK, Vidamdodua, Dangduyha.violet

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Bãi Khem vào mùa cá trích

Một góc làng chài bãi Khem - Phú Quốc.
Bãi Khem nằm cách thị trấn An Thới 5km và cách Dương Đông 25km, là nơi dừng chân lý tưởng với du khách đến từ đất liền, nhất là những ngày nghỉ cuối tuần. Không chỉ là thiên đường du lịch, “đảo ngọc” Phú Quốc còn được thiên nhiên ban tặng cho bãi Khem, một bờ biển tuyệt vời, vừa thơ mộng vừa giàu cá tôm, đặc biệt là cá trích.

Ấn tượng bãi Khem

Bãi Khem rất đẹp, đẹp một cách nao lòng vì tất cả bãi bờ, rừng cây, ghềnh đá ở đây đều còn hoang sơ, kỳ ảo.


< Bà con ngư dân đang gỡ lưới cá trích.

Đặc biệt là bãi cát trắng mịn, mặt nước trong xanh, quanh năm lộng gió. Tuy không rộng lớn, không hoành tráng bằng bãi Sao, bãi Dài nhưng bãi Khem quyến rũ và dễ níu chân du khách nhờ không gian trầm mặc và kín đáo, cảnh vật rất nên thơ.

Đứng từ triền núi nhìn các ghe tàu ngoài khơi và các ngư dân đang đánh bắt gần bờ mới thấy hết cảnh sắc nên thơ của một làng chài yên ả, thanh bình. Từ bao đời nay, hàng trăm bà con ngư dân đã gắn chặt đời mình với đời biển tại bãi Khem mang hình vòng cung này. Mỗi ngày, từ sáng sớm hàng đoàn tàu, ghe và thuyền thúng đã ra khơi đánh bắt cá, tôm, cua, ghẹ… nổi tiếng nhất là cá trích, đặc sản của Phú Quốc. Cũng tại bãi biển này, nhiều hộ đã khá lên nhờ nuôi ốc hương biển, một loài ốc có giá trị kinh tế cao, được nhiều người sành điệu ẩm thực ưa thích.


< Cá trích dính lưới tại bờ biển bãi Khem.

Hiện nay tại bãi Khem, các nhà hàng, quán ăn, đặc biệt là quán võng đã mọc lên san sát, tuy chưa sạch đẹp và tươm tất lắm nhưng vẫn hấp dẫn du khách nhờ có nhiều đặc sản biển tươi sống với nhiều kiểu cách nấu nướng, ăn uống tại chỗ thật thú vị. Tại đây, mọi người có thể ra tận các xuồng chài, ghe lưới chọn mua những loài đặc sản cá, tôm, sò, ốc vừa mới đánh bắt mang lên nhà hàng nhờ chế biến tại chỗ, trong đó ấn tượng nhất là món gỏi cá trích.

Mùa cá trích

Hằng năm, bắt đầu từ tháng 4 kéo dài đến hết tháng 7, tháng 8 âm lịch, bà con ngư dân ở bãi Khem lại rộn ràng, tất bật. Thuyền ra khơi đánh bắt cá trích từ lúc 4-5g sáng, lúc sương mù hãy còn dày đặc.


< Cá trích tươi sống vừa dính lưới.

Cá trích sống thành đàn ven biển, chúng thường kiếm ăn trên mặt nước, nơi có nhiều rạn đá. Đây là một loài cá nhỏ được phân bố rộng rãi trên các vùng ven biển Việt Nam, nơi có độ mặn thích hợp, nổi tiếng nhất là ở Quảng Nam, Quảng Bình, Bà Rịa - Vũng Tàu, Phú Quốc và một số nơi thuộc vùng biển Tây Nam. Loài cá này có hình dáng thuôn dài và dẹp, vảy màu bạc lấp lánh. Con lớn nhất dài khoảng gang tay và to bằng hai ba ngón tay. Ngư dân Quảng Nam gọi cá trích cỡ nhỏ là cá ve (ve), còn cá lớn là cá trích hoặc cá mắt tráo.

Lội đến đâu chúng đốp bọt đến đó tạo thành những gợn nước li ti giúp bà con ngư dân phát hiện một cách dễ dàng. Muốn bắt, bà con chỉ cần thả lưới mành bao vây khoảng 30-60 phút là kéo lên. Gặp thời tiết thuận lợi, trúng mùa vụ, mỗi mẻ lưới có thể kiếm trên 1 tạ cá (giá bán tại chỗ hiện nay 15.000-20.000 đồng/kg, rẻ hơn mua tại chợ hoặc nhà hàng ba bốn lần). Theo ông Năm Rài ở ấp 6, thị trấn An Thới, một tay lưới cá trích chuyên nghiệp ở bãi Khem, cá trích có gần như quanh năm nhưng nhiều nhất là từ tháng 4 đến hết tháng 6 âm lịch. Mùa này cá mập, béo, thịt rất thơm ngon.


< Gỏi cá trích.

Nghề lưới cá trích rất vất vả, đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Muốn đánh trúng cá phải đánh vào lúc sáng sớm, từ lúc 4g sáng. Đa số người đánh bắt đều sử dụng thuyền thúng (mỗi thúng 2 người). Sau khi chuẩn bị xong, họ đưa tất cả thuyền thúng lên tàu (mỗi tàu 12 thúng) rồi chạy ra xa bờ khoảng 10km để thả lưới. Thả xong, một giờ sau kéo lưới và mang thúng trở vào bờ để gỡ cá giao cho bạn hàng.

Sáng tinh mơ, vừa đặt chân lên bãi Khem, đã thấy bà con ngư dân áo quần ướt sũng khẩn trương kéo mấy chục chiếc thuyền thúng lên bờ. Tất cả đàn ông, đàn bà, trẻ con đều nhanh tay giũ lưới, gỡ từng con cá tươi rói, lấp lánh ánh bạc cho vào thùng.

Đối với bà con vùng biển đảo Kiên Giang, cá trích là một đặc sản, thịt rất thơm ngon, thường dùng để nướng, chiên, nấu canh chua, kho lạt xốt cà, làm chả nhúng giấm… Hấp dẫn nhất là món gỏi cá trích vắt nước cốt chanh, trộn với dừa nạo, đậu phộng rang, hành tỏi phi, rau sống rồi cuốn bánh tráng chấm với nước mắm chánh hiệu Phú Quốc.


< Ông Trần Văn Minh -  một ngư dân cố cựu tại bãi Khem, Phú Quốc.

Trong dân gian có câu “Nước mắm ngon (hòn) đem dầm con cá trích. Anh có vợ rồi đừng xích ra xa (đừng bỏ em nhe!)…”. Chính vì sự nổi tiếng đó mà nhiều khách du lịch balô, khách sành điệu ẩm thực dân gian mỗi lần đến bãi Khem đều tìm đến những quán đặc sản cá trích để thưởng thức một lần cho thỏa mãn… Nếu chọn được chỗ ngồi ngon, người ăn ngon và thêm chay rượu sim Phú Quốc thì cuộc đời còn gì sướng hơn!

Hè này, nếu có dịp ra Phú Quốc, bạn nhớ đến bãi Khem để hòa mình vào thiên nhiên và tận hưởng được mùi vị thơm ngon của con cá trích. Đến đây các bạn còn có dịp làm quen với ngư dân. Tuy suốt ngày ở “góc biển chân mây, gác mái chèo thời khô túi” nhưng tâm hồn họ lúc nào cũng bình dị, mộc mạc và giàu lòng hiếu khách.

- Theo Huỳnh Văn Nguyệt (Du lịch Tuổi Trẻ)

Báu vật rừng của người Xê Đăng

 thôn 2, xã Trà Linh (Nam Trà My, Quảng Nam) có một cây chò cao vút vượt lên hẳn so với những cây rừng cổ thụ khác. Cây chò ước chừng hơn 400 tuổi.

< Gốc cây lớn ước chừng 10 người ôm.

Đứng giữa lưng chừng núi nhìn xuống phía khe suối, cây chò cao ngất ước chừng gần 100m, vời vợi giữa nguyên sinh đại ngàn, không gian thật tĩnh mịch, trong lành, mát mẻ dễ chịu. Đây là lần đầu tiên tôi được tận mắt chứng kiến một cây chò cao như thế. Men theo khe suối tìm đến gốc cây này để được tận mắt chiêm ngưỡng, hai bên suối là những khoảnh ruộng lúa nước của bà con Xê Đăng.

Đã từ lâu người dân Xê Đăng nơi đây xem cây chò này như là một báu vật để mọi người cùng gìn giữ. Đó là một cây chò lớn khủng khiếp trong sự tưởng tượng của chúng tôi, 4 người vòng tay ôm mà chưa hết nửa đường kính của gốc cây. Chúng tôi ước lượng gốc cây này phải đến 10 người ôm mới xuể được.

< Cây chò cao vượt lên trên trong khu rừng.

Khi chúng tôi đến nhà già làng Hồ Văn Chính, đã có rất nhiều người dân bản tập trung để cùng trò chuyện. Thấy có người lạ đến, Hồ Văn Phương Bí thư Đoàn thôn 2 hỏi lớn: “Lại đến hỏi mua cây à?”. Chúng tôi cười trong ánh mắt ái ngại của bà con dân bản: “Không, đến để được uống rượu và nghe kể chuyện về cây thôi”.

Tôi hỏi cây chò này có từ bao giờ rồi, già làng Hồ Văn Chính nhíu mày rồi khẳng định: “Không biết đâu. Đời ông mình đã có, đời cha mình giữ cây, đến đời mình thì dù răng đi nữa thì cây không được bán, được chặt. Mình giữ cho con cháu mình thôi!”.

Trước lúc qua đời, cha của già Chính đã trăn trối lại rằng, phải giữ lấy cây chò này cho bản làng, cho con cháu mai sau, tuyệt đối không được chặt hay bán. Vì vậy, đối với những gia đình người dân Xê Đăng nơi đây, cây chò này là báu vật của cả bản làng. Già Chính khoe: “Đã có người đến trả hàng trăm triệu nhưng bọn mình không bán, người dân tộc thiếu tiền, nhưng tình người và tình rừng bền lắm!”.

Rồi già Chính kể lại chuyện cách đây hơn 1 năm, bọn lâm tặc lợi dụng lúc nửa đêm đến cưa trộm cây chò này. Nghe tiếng cưa máy vọng vang núi rừng giữa đêm khuya vắng lặng, già Chính liền cùng dân làng đốt đuốc chạy xuống đuổi bọn chúng đi. Đến sáng hôm sau xuống kiểm tra lại, thấy gốc cây đã bị một đường cưa lẹm vào gần một gang tay, già Chính cùng người dân đau cái bụng lắm. Từ đó trở đi, làng cắt cử người thường xuyên đến kiểm tra và trông chừng cây chò này.

Già Chính bảo, nếu không trông chừng bọn lâm tặc đốn mất cây này, làng mất cây quý, sau này con cháu không còn biết nữa. Xác định cây là vốn quý của bản làng nên người làng luôn chăm sóc và gìn giữ, tránh để kẻ xấu lợi dụng mua hay phá hoại.

- Theo Gia Ly (Petrotimes)

Thăm phủ Tây Hồ

Nhìn trên bản đồ, Hồ Tây (Hà Nội) có hình giống như chiếc càng cua. Nơi bán đảo nhô ra mặt nước, mỏm xa nhất, đẹp nhất, quanh năm dập dềnh sóng nước, êm ả mây trời, lảng bảng sương lam... là phủ Tây Hồ.

< Cổng vào Phủ Tây Hồ.

Từ trung tâm thủ đô, chúng tôi lên đê Yên Phụ, qua làng Nghi Tàm, men theo con đường rợp bóng những hàng phi lao rì rào cuối khu biệt thự Tây Hồ. Sau khi quanh co giữa những vườn hoa và quất cảnh, giữa bát ngát hương sen và lồng lộng gió trời, chúng tôi đến hòn đảo nhỏ mà người xưa ví là “bãi đất cá vàng” nhô ra giữa mặt nước lung linh, nơi có Phủ Tây Hồ huyền thoại.

< Phủ chính.

Phủ Tây Hồ (còn gọi là phủ Mẫu Tây Hồ) thờ bà chúa Liễu Hạnh. Đó là một trong tứ bất tử của Việt Nam (Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh). Truyền thuyết kể rằng, bà là công chúa Quỳnh Hoa, con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thơ ca. Do vô ý làm vỡ chén ngọc quý, bị vua cha đày xuống trần gian.

Đến hạ giới, công chúa chu du, khám phá khắp mọi miền. Khi qua đảo Tây Hồ, nàng phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương.

< Cây si cổ thụ.

Một ngày nọ, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan trong lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào, trò chuyện rất tâm đầu ý hợp với chủ quán, cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán”, nay vẫn còn lưu truyền. Song, ít lâu sau, khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm công chúa thì người xưa đã không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm. Người xưa gọi là phủ Tây Hồ.

Phủ chính có quy mô kiến trúc lớn nhất. Mặt trước có cửa tam quan 2 tầng, mái giữa có ghi “Tây Hồ hiển tích”, được trang trí tỉ mỉ, công phu. Bốn cánh cửa giữa phần trên chạm tứ quý, phần dưới chạm tứ linh, giữa chạm đào thọ. Qua tam quan là phương đình 2 tầng, 8 mái. Nhà tiền tế xây sát sau phương đình.

< Lầu Sơn trang.

Giữa khung cảnh mây nước hữu tình tuyệt đẹp, Phủ Tây Hồ luôn thu hút đông đảo du khách. Cổng Phủ Tây Hồ sừng sững bên cây đa cổ. Hai bên trụ cổng có khắc các câu đối nói về sự tích Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh. Chúng tôi đi theo con đường uốn lượn bên hồ lơ thơ liễu rủ. Không khí tươi mát, cảnh sắc yên bình dưới bóng mát của các cây cổ thụ. Đặc biệt nhất là cây vối già mấy trăm năm tuổi, nằm nghiêng như con kỳ lân mình cong hình sóng gợn, đang vươn đầu ngóng ra cổng. Bên cạnh là cây si cổ thụ với hàng chục rễ đại lòa xòa, quyện vào nhau chằng chịt, như một bức rèm cây kỳ lạ. Phía đối diện, những chùm rễ cây  vươn thẳng ra mặt hồ, co cụm, quấn quýt thành nơi chốn cho chim chóc đua nhau về làm tổ, ríu rít đêm ngày.

< Miếu cậu.

Sát Phủ chính là lầu Sơn Trang 3 tầng, 8 mái cong, lòng nhà có 2 tầng, tầng trên thờ Quan Âm, tầng dưới là 3 động Sơn Trang chiếm 3 gian. Nơi đây quanh năm nghi ngút khói nhang của khách thập phương. Trên các bệ thờ, những bức tượng Mẫu, tượng Phật, tượng Cô, tượng Cậu, các quan… rực rỡ vàng son. Bên dưới không lúc nào thiếu các mâm quả, xôi oản, heo quay, gà luộc, tiền vàng, đô la âm phủ. Đám đông người đi lễ thành kính qùy lạy, khấn vài, cầu phúc giải hạn, cầu xin may mắn, mong duyên may phận đẹp, xin tai qua nạn khỏi…

Phía ngoài Phủ chính xây 2 am thờ nhỏ thờ Cô và Cậu. Phía trước lầu có tháp nhỏ, dưới gốc si là tấm bia Từ chỉ của xã Vĩnh Thuận dựng năm Thiệu Trị 5 (1845). Các di vật trong Phủ còn khá phong phú với nhiều câu đối, cửa võng, long ngai, bài vị, sập thờ. Cửa cuốn, cửa võng được chạm khắc đẹp, mang nét nghệ thuật thế kỷ XIX .

- Theo Giao Thúy (Phụ Nữ Online)

Gian lao đường ra đất mũi

Sáng sớm, tôi ra bến với dự định sẽ đi tàu cao tốc chạy thẳng ra Đất Mũi, thay vì đi đường bộ đến thị trấn Năm Căn rồi mới bắt canô ra Xóm Mũi, huyện Ngọc Hiển.

Ở nhà cứ nghĩ đến Cà Mau là tưởng tượng Đất Mũi và U Minh ngay sát nách. Ai dè đến nơi còn phải đi tiếp 100 cây số đường sông nữa. Coi như bằng từ Hà Nội đến Hải Phòng, hay từ TPHCM ra Vũng Tàu. Chính vì thế mà cũng khối người Cà Mau còn chưa một lần đi ra rẻo đất bé xíu nằm giữa biển Đông với biển Tây.

Ra đến nơi đã thấy có một xế ôm đứng chắn ngang báo… tin không vui: “Đi Đất Mũi hả, tàu vừa rời bến được ba phút. Để tui điện cho chủ tàu chạy chậm lại rồi lên đây tui chở đuổi theo tàu”.

Nghe lời đề nghị kỳ quặc ấy, tôi thấy nghi hoặc, cứ như đang bị gạt, nên vội vã xua tay. Mấy bác xế ôm bến tàu lắc đầu trước sự dại dột của tôi: “Không đi thì thôi vậy, chờ một tiếng nữa mới có chuyến”. Chờ thì chờ chứ, phi xe máy đuổi theo tàu tốc hành trên sông có khác gì cảnh quay trong phim “Tất cả các dòng sông đều chảy”, nhân vật phi xe ngựa đuổi theo tàu thủy.

Khi tàu thủy giống xe “dù” tham bắt khách

Tám rưỡi mới có tàu chạy ra Đất Mũi, nhưng chỉ 20 phút nữa thôi là có tàu đi Năm Căn. Tôi quyết định mua một vé tàu 60.000 đồng đến Năm Căn rồi bắt tàu đi tiếp, cớ chi mà phải ngồi đợi. Có lẽ một trong những chuyến đi thú vị và nhớ đời nhất của tôi là ở trên con sông này. Giống như cư dân Hậu Giang và Tiền Giang, nơi này người ta cũng sống trong những ngôi nhà hai mặt tiền: Mặt tiền lộ và mặt tiền sông. Nhà có mặt tiền sông cũng phát tài chẳng khác nhà mặt phố. Hầu như nhà nào cũng tận dụng mặt quay ra sông để kinh doanh cả. Những ngôi nhà được xây nhô ra sông bằng các cột chống vững chãi (ít ra là trông có vẻ như thế). Những vựa cá, vựa tôm, vựa gạo… ủ ê, xám xịt và cũ kỹ tấp nập người vào ra, khuân vác trên bến, dưới thuyền.

Trong những quán xá sông nước ấy, không chỉ có cá mú và mắm muối, người ta mở bất cứ thứ gì có thể như một dãy phố lớn: Từ studio chụp ảnh cưới, tiệm thuốc tây, cửa hàng bán điện thoại cũ cho đến trại hòm (bán quan tài). Nếu khi chiều tàn, có muốn ngồi ngóng phố thì chủ nhà bắc ghế ra mặt tiền sông, chứ không thiết ngồi quay ra mặt lộ.

Tàu tốc hành nhưng cũng chậm như rùa, tốc độ tối đa chỉ 30km/giờ. Tàu đang chạy ngon trớn trên sông bỗng dừng phắt lại. Ngó sang thấy có cô gái trèo lên tàu từ một vỏ lãi bằng gỗ. Người đi rồi, vỏ cứ trôi tự do trên sông. Tôi tò mò lắm mà không tiện hỏi, những muốn biết cái thuyền gỗ đó sẽ như thế nào, ai mang nó về? Tàu tiếp tục đi tằng tằng, lừ lừ, qua những khu đông dân cư lại hú còi ầm ỹ. Rồi thoắt cái tàu giảm tốc độ, táp vào một ngôi nhà. Trên sân có sẵn một ông cụ đứng nghiêm chỉnh, tay cầm catáp.

Ông cụ nhảy xuống dưới tàu một cách lanh lẹ rồi tự tìm chỗ ngồi. Tàu chạy, rồi dừng, rồi quẹo ngang quẹo dọc, cho chị phụ nữ bế em nhảy xuống, cho bà cụ xách làn nhảy lên. Tàu hú còi bắt khách. Có người từ mũi tàu tót cái là vào ngay nhà, từ cửa sổ mạn tàu ngó lên đã thấy balô để ở cửa, áo cởi ra vắt thành ghế. Tiện không gì bằng. Có người thì ghé nhờ vào nách nhà người khác rồi từ đó vài bước ra đường lộ để đi tới nơi cần đến. Có người lại nhảy lên một mỏm đá vô danh, hoặc bước xuống tàu từ một mũi đất không tên. Họ thuộc đường sông, thuộc từng mỏm đá và bất cứ hõm đất nào có thể ghé được thuyền như thể tôi thuộc đường quanh Bờ Hồ vậy.

Con tàu này, giống hệt một chiếc xe “dù” tham bắt khách và trả khách tùy tiện dọc đường, không cần chờ phải đúng bến. Lúc này mới thấy hối hận vì đã ngờ oan bác xế ôm muốn chở tôi đuổi theo tàu lúc ở bến Cà Màu. Có một cậu ngồi trên mũi tàu đóng vai trò “lơ xe”, sẽ ra hiệu cho lái tàu đón khách và nhân tiện đỡ khách lên xuống tàu.

Đi xe đò mà như thế thì tức điên, thì sốt ruột muốn chết, nhưng lần đầu tiên chứng kiến cảnh tàu “dù” đón trả khách trên sông, tôi thích chí quan sát từ đầu đến cuối. Thậm chí qua cửa sổ còn căng mắt quan sát xem có ai đứng trên bờ. Từ đàng xa mà nhìn thấy dăm khách đang tụ lại nghiêm trang trên một hom đất, mắt dõi theo con tàu đang đến gần là tôi phấn khởi suýt kêu lên nhắc lái tàu: “Lại có khách kìa”.

Lại ngần ấy động tác: Tàu trôi lại gần, cậu lơ đu người vào cột chống nhà để thay cho cái neo, với tay đỡ khách xuống thuyền, khách ổn định chỗ ngồi sau khi nhồi hàng đống thúng mủng tùng phèo vào chỗ để chân của tôi (tôi ngồi ngay ghế đầu - nơi có cái hốc rất rộng để nhét đồ), sau đó lơ đến tận nơi để thu tiền, xé vé. Khách nào muốn lên bờ thì bảo trước cho lái tàu biết dăm phút, anh ta sẽ đỗ lại. Chỗ nào sát rừng đước, không có chỗ táp thì cũng giống cô gái lúc đầu leo lên tàu bằng ghe gỗ, nhiều khách được người nhà chèo vỏ lãi ra giữa dòng đón về. Giống như tôi vẫn được người nhà đưa bằng xe máy ra ôtô vậy.

Người sống quanh dòng sông rộng lớn này thực sự coi vỏ lãi giống như một chiếc xe máy. Toàn tỉnh hiện có tới 7 vạn chiếc vỏ lãi và hơn 400 canô, chưa kể gần trăm tàu cao tốc nữa. Tất cả cộng lại thành một luồng giao thông tấp nập trên sông, vui như thủ đô vào giờ tan tầm.

Chỉ hiềm nỗi, ngoài mấy biển báo giao thông đường thủy nhô cao vót trên mấy chiếc cột dưới lòng sông, không có cảnh sát nào tuýt còi, nên đi lại ở đây tự tung tự tác. Việt Nam chúng ta, lạ là thế, từ Lũng Cú đến Cà Mau, từ xe hai bánh, bốn bánh, xe ngựa cho đến tàu thuyền, đều đi lại tung tăng một cách hồn nhiên những lúc yên trí không bị ai rình ghi thẻ phạt, mặc sức tấp ngang táp dọc như sân nhà. Mới bật cười lớn trong bụng: Đi máy bay may ra thoát cái nạn thích đỗ lúc nào thì đỗ. Lúc ấy tôi không biết rằng mình đã nhầm.

Cuối cùng, sau một chầu bắt, trả khách, tàu cũng cập bến Năm Căn. Bến tàu cũng đồng thời là bến xe khách luôn. Trên bờ, xe buýt đậu. Dưới sông, tàu khách neo. Nghỉ ngơi đã có một quán nước nhô ra sông bằng những ván gỗ. Nhưng chờ hoài, chờ mãi, ngắm sông chán chê vẫn chưa thấy tàu Đất Mũi đi qua. Tàu bè tấp bến Năm Căn rất đông, nhưng toàn đi Gành Hào và Rạch Tàu. Người người lần lượt xuống tàu, hơn tiếng sau ngó quanh chẳng còn ai.

Mỗi lần tàu đến, dân trên bến chỏ tôi: “Có xuống tàu không?”. Tôi xua tay: “Không, tôi đi Đất Mũi”. Miết sau lại thấy một tàu nữa xuất hiện từ đàng xa. Mong ngóng và mừng rỡ. Đến gần lại thất vọng khi thấy chữ Rạch Tàu: “ Không, tôi đi Đất Mũi”. “Tàu này đi Đất Mũi mà” - Người ta lao xao – “Bảo người ta đi cho người ta biết. Tội quá à”. “Không, tôi không đi Rạch Tàu. Đi Đất Mũi kia”. “Tui đảm bảo tàu này là ra Đất Mũi” – anh phụ tàu khẳng định chắc nịch.

Tôi bán tín, bán nghi leo xuống. Thêm hai chục hành khách nữa khẳng định với tôi tàu này đi Đất Mũi. Đến đó tôi có thể bắt xe ôm ở chợ để ra Đất Mũi, cách có hai cây số thôi. Lúc này mới chợt nhớ ra lúc ở bến Cà Mau, không thấy bất cứ một ký tự nào liên quan đến Đất Mũi, chỉ rặt Gành Hào và Rạch Tàu. Nghĩa là... Rạch Tàu cũng chính là Đất Mũi. Đành tự vỗ trán mắng mình. Hôm về nhà rồi tra từ điển mới ra chính xác: Xóm Rạch Tàu, Xóm Đất Mũi thuộc Xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, TP.Cà Mau. Hai xóm nằm cùng trên một hòn đảo. Tôi đã bỏ qua không biết bao nhiêu chuyến tàu ra Đất Mũi!

Tận cùng đất nước là đâu?

Con tàu chỉ có chừng hơn ba chục chỗ, nhưng người ta kê thêm một dãy ghế nhựa cho khách ngồi dọc lối đi, quá trọng tải lên gấp rưỡi. Khách ngồi thút nút. Tôi thấy ngộp thở, người lèn như cá mòi, không thể nhúc nhích bất cứ bộ phận nào trên cơ thể ngoài cơ mặt. Đi tàu xe cứ hay nghĩ dại (hoặc giả đã thành phản xạ có điều kiện, cứ leo lên phương tiện công cộng ở Việt Nam là lập tức nghĩ dại), nghĩ tàu này mà lật, nước tràn vào, đố mà thoát ra nổi. Mà có chui ra ngoài cũng để làm gì chứ, tôi đâu có biết bơi. Dãy áo phao mới cứng chưa ai dùng từ ngày sắm tàu vẫn còn buộc gọn gàng trên trần, vỏ quấn chặt băng keo, muốn tháo ra được bằng tay không chắc chỉ mất 15 phút.

Tôi cố gắng tạm quên cảnh du lịch giống tỵ nạn này bằng lấp loáng những rừng đước, sú, vẹt... xanh rì lá, rễ đước bật tung tròn xoe trên mặt nước, tạo cảnh đặc trưng của rừng ngập mặn. Mũi Cà Mau - khu sinh quyển của thế giới - đã thổi tràn ôxy trong lành vào trong khoang tàu chật hẹp, bí bức. Gió mặn mòi không thể tung nổi tóc rối, nhưng nếu không có nó, khó chịu nổi hai tiếng đồng hồ trong lòng tàu.

Cập bến Rạch Tàu, một tốp xe ôm mặc đồng phục đổ ra đón khách. Giá chung là 50.000đ cho lượt đi vào Đất Mũi và quay trở lại bến tàu. Lúc nào cần về, alô trước 5 phút, xe ôm sẽ quay lại đón. Đường ra mũi đất đi qua những rừng đước mọc thẳng hàng trên nước, hình thành những rạch hẹp xanh lục, mơ màng lòng nước. Có lẽ đây là một trong những hình ảnh đẹp nhất tôi được nhìn thấy trên dải đất chữ S. Anh lái xe ôm của nghiệp đoàn xe ôm Rạch Tàu chạy với tốc độ kinh hồn, gió bạt mặt, anh ta nói lời gì tôi không nghe rõ. Suốt chuyến đi từ Sài Gòn, tôi nghe lúc được lúc chăng tiếng của người miền Tây. Ấy vậy mà đi mua bán gì cũng bị người ta nhăn mặt: “Cô người vùng nào mà giọng khó nghe quá”.

Tôi đoán rất nhiều người miền Bắc cả đời chẳng đến mũi Cà Mau, và nhiều người xứ Mũi cả đời không nhìn thấy mùa đông. Là xứ ta cả, mà vừa quen vừa lạ. Anh xe ôm da đen cháy nắng, tóc vàng hoe, lưng áo rách mảng tướng, mơ hồ về chuyện đi du lịch. Trong suốt quãng đời chạy xe ôm, không đếm nổi đã bao nhiêu lần anh chở sau lưng nỗi háo hức của những người khách muốn một lần được nhìn thấy cột mốc GPS0001. Và rồi tôi đến nơi, lúc đã gần chính ngọ.

Nắng cháy đỉnh đầu. Biểu tượng của Đất Mũi, dù thiêng liêng, hào sảng, ai được chụp ảnh ở đó là oai, rất tiếc, chỉ là một con tàu xây bằng gạch đã tróc vôi, đề chữ: Mũi Cà Mau. 8o.37’.30” Vĩ độ Bắc. 104o.43’ Kinh độ Đông. Nhưng khi đứng trên cây cầu bêtông dài bất tận bắc ra tận biển, thấy tất cả những gì “đáng tiếc” chỉ còn là tiểu tiết, cả vầng mặt trời đang rải lửa đến hoa cả mắt cũng bỗng hóa thành làn gió mát. Chỉ còn duy nhất ý nghĩ: Mình đã trả lời được câu hỏi hành hạ từ năm... 4 tuổi: “Tận cùng đất nước này là ở đâu. Trông nó như thế nào?”.

Tôi ăn trưa trong nhà hàng nổi. Ngồi trên lan can trông ra biển và “con thuyền Cà Mau”, cùng lúc được ăn cả ba món đặc sản: Khô thòi lòi và vọp xào bồn bồn. Xin miễn miêu tả, vì dân miền Tây ắt đã biết nó là món gì, còn người xứ xa, có tả thêm nữa cũng khó mà hình dung. Tốt nhất hãy vượt chặng đường có thể lên đến trên 2.000 cây số đối với nơi xa nhất là Lũng Cú để được ăn món vọp biển hấp ngọt lịm chấm với sốt me.

Đoạn cuối hành trình

Tôi bay của Vietnam Airlines từ Cà Mau về TPHCM, nhưng trễ giờ mất một tiếng vì máy bay trục trặc kỹ thuật. Mãi 9 giờ sáng mới được thông báo rằng: “Chuyến bay chuẩn bị khởi hành trong vài phút tới, nhưng sẽ quá cảnh ở... Cần Thơ để tiếp nhiên liệu”. Hỡi ôi, từ Cà Mau đến Sài Gòn có 380km, vậy mà cũng “transit” ở Cần Thơ, cứ như thể đi Paris mà transit Dubai. Việc kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ, giống như nghe chuyện cọp xay lúa trong kho tàng truyện trạng của Bác Ba Phi.

Lên máy bay, thấy muỗi bay vù vù trong khoang hành khách. Lại mắc cười. Đúng là muỗi U Minh theo về tận nơi đây mà. Sau hỏi cô chiêu đãi viên mới hay: Chỉ những sân bay lớn ở Việt Nam mới có dầu. Sân bay Cà Mau không có, nhưng anh phi công mới lái tuyến này nên chưa biết, bay đến Cà Mau thì dầu gần cạn. Mới tính toán rằng chỗ dầu còn đủ đi đến Cần Thơ...

Lúc hạ cánh ở xứ “gạo trắng nước trong” quả có thấy anh phi công Tây tất bật đi lên đi xuống và một xe chở dầu vội vã chạy ra tiếp. Vậy là sau 180km, máy bay lại tung cánh bay nốt 200km về TPHCM. Quả là máy bay qua xứ Cà Mau có khác, cũng thích tấp đâu thì tấp giống tàu tốc hành trên sông - Hồn nhiên và dễ thương vậy đó.

- Theo báo Lao Động

Bài đăng phổ biến