Sự cố sinh viên Phạm Ngọc Ánh bị mất tích khi đang chinh phục đỉnh núi Phanxipang hơn chục ngày qua đã thu hút sự quan tâm của dư luận, nhất là các bạn trẻ có niềm đam mê khám phá. Làm thế nào để phượt mạo hiểm mà không nguy hiểm?
Cần dự liệu mọi tình huống
“Phượt” là từ thông dụng khi nói về đi du lịch “bụi”, du lịch khám phá, một loại hình du lịch lý thú và được các bạn trẻ yêu thích. Tuy nhiên, “phượt” như thế nào để an toàn vẫn chưa được nhiều người quan tâm một cách đầy đủ để có sự chuẩn bị cần thiết, dẫn đến nhiều tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Theo ông Nguyễn Văn Mỹ - Công ty dã ngoại Lửa Việt, trường hợp sinh viên Phạm Ngọc Ánh bị mất tích tại núi Phanxipang vừa qua không phải là lần đầu. Trước đây, từng đã có nhiều vụ tại nạn thương tâm xảy ra cho người đi du lịch mà nguyên nhân là do chưa có sự chuẩn bị thật tốt. Cũng theo ông Mỹ, tâm lý phổ biến của các bạn trẻ hiện nay là “thích là đi”, chứ không nghĩ rằng “phượt” không phải dành cho tất cả mọi người.
Ông Mỹ cho biết, để có một chuyến “phượt” an toàn, cần phải có sự chuẩn bị tốt cả về sức khỏe, lương thực, thuốc men, dụng cụ y tế, dụng cụ hỗ trợ… Quan trọng là phải tìm hiểu kỹ thông tin về y tế, công an… (nếu đi nước ngoài phải biết địa chỉ và số điện thoại của Đại sứ quán Việt Nam) nơi mình sẽ đến. Chú ý là không bao giờ đi “phượt” tay không, luôn phải mang theo một ba lô có lương khô đủ dùng trong vài ngày, nước uống và các dụng cụ cần thiết khác như đèn pin, đồ dùng để tránh mưa, tránh lạnh. Nếu lỡ bị lạc thì nên dùng các vật dụng sẵn có đánh dấu đường đi để mọi người có thể tìm thấy mình.
Bên cạnh đó, khi bị lạc trong rừng thì có thể sử dụng đèn pin nhấp nháy hoặc dùng miệng phát ra tiếng hú để làm tín hiệu, đồng thời tốt nhất là nên ngồi chờ người đến ứng cứu chứ không nên tự tìm đường để tránh đi lạc càng xa.
Anh Hoàng Thạch, một thành viên của “Sài Gòn phượt hội”, cũng cho rằng, ngoài sự chuẩn bị về vật dụng thì điều quan trọng hơn vẫn là sự chuẩn bị về tinh thần. “Cần dự liệu mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra như gặp cướp, bị tai nạn, lạc đường… để chuẩn bị phương án xử lý. Nếu không, khi bị rơi vào tình huống xấu, chúng ta sẽ dễ dàng bị hoảng loạn”, anh Thạch chia sẻ.
Phòng tránh mới quan trọng
“Phải luôn giữ được liên lạc với nhóm của mình để tránh bị lạc”, anh Hoàng Thạch nói.
Một máy bộ đàm bên người sẽ vô cùng hữu dụng để các thành viên kết nối, thông báo cho nhau về những bất trắc có thể xảy ra trên đường đi. Điện thoại di động lúc nào cũng phải đảm bảo, tốt nhất nên mang theo pin sạc dự phòng.
Chuẩn bị đối phó tình huống là cần thiết, nhưng quan trọng hơn vẫn là phải làm sao để không phải rơi vào tình huống đó. Ông Mỹ nói về một kinh nghiệm: “Tôi đã từng đến núi Kinabalu (vườn quốc gia Kinabalu, phía đông Malaysia – PV), nơi được xem là nóc nhà của Đông Nam Á và thấy rằng họ tổ chức rất bài bản. Tại đây, giá vé tuy cao hơn nhưng bao gồm cả bảo hiểm. Trước khi vào leo núi, du khách phải qua kiểm tra sức khỏe. Dọc đường lên núi có các trạm cứu hộ, có máy bay trực thăng sẵn sàng ứng cứu kịp thời khi xảy ra sự cố. Điều này thì tại Phanxipang, ta vẫn chưa làm được”.
Về phía các đơn vị tổ chức và du khách, ông Mỹ cho rằng có sự chuẩn bị tuyệt đối an toàn trước khi thực hiện chuyến đi khám phá. Đặc biệt, đối với những địa danh lạ thì cần thiết phải có người hướng dẫn.
Với việc leo núi, anh Thạch có lời khuyên du khách không nên tự ý leo núi nếu không có chuyên gia đi theo, vì rất nguy hiểm. Leo núi không chỉ đơn giản là leo lên cao mà còn là sự đối mặt với thời tiết, khí hậu, sự thay đổi áp suất không khí… Nếu không được hướng dẫn nghiêm túc thì khả năng gặp tai nạn đáng tiếc rất dễ xảy ra. Leo núi vào mùa mưa bão thì lại càng nguy hiểm hơn nhiều.
Theo các chuyên gia du lịch, “phượt” là mạo hiểm chứ không nguy hiểm, chỉ mình mới tự đưa mình vào tình huống nguy hiểm. Nên có sự chuẩn bị thật tốt và luôn đề cao cảnh giác, phòng ngừa mọi tình huống có thể xảy ra để bình tĩnh ứng phó. Không nên “phượt” theo phong trào, “phượt” theo cảm tính để rồi tự đưa mình vào nguy hiểm.
- Theo Hải Nam (Tin Nóng), internet
Cung cấp các Chương trình Tour Du Lịch 2016, Dịch vụ Du Lịch, Bán Vé Máy Bay, Cho thuê xe du lịch, Làm Visa, Khách sạn giá rẻ.
Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013
Đường sắt VN trong mắt người Nhật
Chuyến tàu Bắc - Nam dài gần 1.730 km vẫn thường lấy của hành khách hơn một ngày đường từ Hà Nội tới TP. Hồ Chí Minh và ngược lại. Thế nhưng, những bất tiện ấy không thể ngăn nổi tình yêu của người dân Việt Nam đối với chuyến đi đặc biệt này.
< Đường sắt Bắc Nam.
Bài viết này được thực hiện bởi Manabu Sasaki, phóng viên của tờ báo nổi tiếng Asahi Shimbun, đồng thời là một trong những người đầu tiên được có mặt trên chuyến tàu kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản.
19 giờ, chiếc đầu máy mang số hiệu D19E do Trung Quốc sản xuất bắt đầu rời ga, mang theo 13 toa tàu và hàng trăm hành khách. Đây là hành trình Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh nằm trong chuỗi các chuyến đi được lên lịch vận hành tới ngày 23/9, nhằm kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản. Biểu tượng hoa sen và hoa anh đào được trang trí dọc đoàn tàu, hứa hẹn một chuyến đi đầy thú vị.
Vé một chiều hạng nhất có giá khoảng 90 USD, mang tới cho hành khách 33 giờ hành trình trong khoang giường nằm điều hòa. Mức giá này thật ra không hề rẻ, thậm chí còn xấp xỉ bằng vé máy bay giữa hai thành phố.
Bởi phần lớn các toa tàu đều hơn 10 tuổi, nên khung cửa sổ và những chiếc đinh tán kim loại trên giường ngủ đã gỉ sét gần hết. Tuy nhiên, nhà vệ sinh và bồn rửa tay vẫn còn tương đối mới và sạch sẽ.
Không phải toa khách nào cũng được trang bị điều hòa nhiệt độ, nên ở nhiều khu vực, hành khách phải tự làm mát cho bản thân bằng những chiếc quạt giấy. Nhiều nam giới còn chọn giải nhiệt bằng cách cởi cả áo ngoài và đứng gần hành lang tàu, nơi đặc biệt nguy hiểm.
20 giờ 40 phút, đoàn tàu vào ga Nam Định, cách Hà Nội khoảng 70 km về phía nam. Không gian thành thị dần biến mất, và thay vào đó là những vệt sáng thưa thớt của vùng làng quê miền bắc.
Tôi tranh thủ rời khỏi khoang giường nằm của mình và đi bộ dọc các toa tàu, nơi tập trung đủ mọi tầng lớp, từ học sinh, sinh viên, cho tới trí thức và dân lao động nghèo. "Người giàu đi máy bay, còn chúng tôi thì đi tàu, cho dù có tốn thời gian đến mấy", Thắng, một sinh viên 20 tuổi, nói, trước khi ngủ thiếp đi trong khi vẫn ôm chặt chiếc balo.
5 giờ sáng, tàu vào ga Đồng Hới, Quảng Bình, thuộc dải đất miền trung Việt Nam. Một bản nhạc nhẹ vang lên, đánh thức hành khách một cách dịu dàng. Đồng lúa và những căn nhà lợp mái đỏ nâu dần hiện ra trong ánh bình minh.
Hành trình qua những cây cầu
Vài phút sau, tàu rời ga, chậm rãi đi vào một cây cầu đang trong quá trình sửa chữa.
"Chúng tôi đang đại tu nó đấy", Yoshitaka Komuro, 55 tuổi, giám đốc của văn phòng đại diện tại Hà Nội của công ty xây dựng Tekken Corp., Nhật Bản, cho biết.
Chiến tranh, dù vô tình hay cố ý, cũng đã phá hủy rất nhiều cây cầu nối liền hai miền Việt Nam. Tuyến đường sắt bắc - nam cũng vì thế mà bị ảnh hưởng không nhỏ. Nó chỉ thực sự được đưa vào hoạt động một cách ổn định từ năm 1976, và vì thế được coi như một biểu tượng của sự thống nhất đất nước.
Kinh tế phát triển, và những đoàn tàu kém chất lượng cũng dần được thay thế. Nhờ vậy, tốc độ di chuyển bằng đường sắt giữa hai thành phố lớn nhất Việt Nam cũng được cải thiện nhanh chóng.
Thay vì 70 tiếng như trước, hành khách giờ chỉ mất hơn 30 giờ đồng hồ là có thể đi từ Hà Nội tới thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Không chỉ dừng lại ở đó, chính phủ Việt Nam đang lên kế hoạch giảm thiểu thời gian đi tàu xuống còn 24 tiếng.
10 giờ 10, đoàn tàu đi vào hầm đèo Hải Vân, nơi từng được quân đội Pháp, Mỹ và Nhật Bản xây dựng lô cốt thời Thế chiến thứ hai. Khi thấy tôi liên tục nhìn đồng hồ và tỏ ra lo lắng khi phát hiện đoàn tàu đã chậm 30 phút so với lịch trình, một nhân viên đường sắt vui vẻ trấn an: "Đừng lo, không sao đâu!".
Một cô gái Pháp, với đống hành lý cồng kềnh bên người, hào hứng bắt chuyện: "Đoàn tàu này có không khí rất đặc biệt, không giống bất cứ đoàn tàu nào trên thế giới. Tôi đang cảm thấy cực kỳ phấn khích".
Khác với không khí có phần u tối ở phương bắc, bầu trời miền trung dường như tươi sáng hơn rất nhiều. Bỏ lại sau lưng đèo Hải Vân ngút ngàn, thành phố Đà Nẵng, trung tâm kinh tế của miền trung Việt Nam, dần hiện ra trước mắt chúng tôi.
Những chiếc xe đẩy thức ăn trưa, sữa chua cùng nhiều loại đồ ăn khác di chuyển qua lại giữa các toa tàu. Một suất cơm, đi kèm gà luộc hoặc cá nướng, có giá từ 35.000 tới 40.000 đồng. Ngoài ra, hành khách cũng có thể lựa chọn bữa trưa từ những cửa hàng bán đồ ăn vặt, bao gồm ngô luộc, bánh mì hoặc khoai lang, được đặt san sát trước các nhà ga.
Những món ăn ở đó đặc biệt hấp dẫn và khiến nhiều người trong số chúng tôi quyết định tới mua. Tuy nhiên, tàu chỉ thường dừng 5 phút ở mỗi nhà ga, do đó việc ngồi yên trên tàu sẽ là một lựa chọn thông minh hơn. Vì lẽ ấy nên những chiếc xe đẩy đồ ăn, dù không quá phong phú, nhưng vẫn rất được các hành khách ưu ái. Phở, một món ăn trứ danh của Việt Nam, đã bị bán hết trước khi tới được chỗ tôi.
Đoàn tàu lướt qua những cánh đồng xanh ngát, và khiến tôi liên tưởng tới khung cảnh ở làng quê Nhật Bản. Khác biệt duy nhất là thay vì những chiếc máy cày, đồng ruộng ở Việt Nam chỉ có nông dân và đám gia súc đang làm việc.
Không lâu sau 9 giờ tối, một bản nhạc nhẹ lại vang lên, đưa hành khách chìm dần vào giấc ngủ.
Khoang giường nằm của tôi đón thêm những người bạn mới đến từ ga Nha Trang, được biết tới như một địa danh du lịch nổi tiếng. Họ là thành viên của một gia đình và đang trên đường về thành phố Hồ Chí Minh sau chuyến nghỉ dưỡng dài ngày ở gần biển.
4 giờ 5 phút sáng hôm sau, đoàn tàu tiến vào ga Sài Gòn, thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh không thể ngăn tôi chiêm ngưỡng những tòa nhà chọc trời của thành phố lớn và sầm uất bậc nhất Việt Nam. Đoàn tàu, dù gặp phải một số trục trặc, vẫn về đích sớm hơn 5 phút so với lịch trình.
"Tôi đã nói là không sao đâu mà", anh nhân viên đường sắt khi trước nhìn tôi và cười tự hào.
"Không phải cứ nhanh là hay"
Hồi năm 2010, Quốc hội Việt Nam từng tuyên bố sẽ triển khai dự án đường sắt cao tốc Shinkansen, Nhật Bản, nhằm đem tới một diện mạo mới cho hệ thống giao thông nước nhà. Tuy nhiên, bởi mức chi phí khổng lồ, nên quyết định này đã vấp phải không ít những phản đối. Ước tính ban đầu cho thấy, Việt Nam sẽ phải chi khoảng 5 nghìn tỷ yên nếu muốn hiện thực hóa mong muốn sở hữu Shinkansen.
Cuộc tranh luận tạm lắng lại cho tới tháng ba năm nay, khi Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng, cho biết: "Đất nước của chúng tôi vẫn còn nghèo". Tuyên bố này, cùng với thái độ cương quyết của Chính phủ, giống như một dấu chấm hết cho việc đưa dự án này vào hoạt động trong giai đoạn trước mắt.
Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí Nhật Bản, ông Trần Quốc Đông, phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, cho hay: "Mặc dù dự án Shinkansen rất hấp dẫn, nhưng chúng tôi muốn cải thiện hệ thống và dịch vụ của tuyến đường sắt Bắc - Nam hiện tại trước khi tính đến những chuyện xa hơn".
"Không phải cứ nhanh là hay. Việc lên tàu vào buổi tối và tới đích khi trời sáng cũng là một cách để thưởng thức chuyến hành trình", ông nói.
- Theo VnExpress, Asahi Shimbun, internet
< Đường sắt Bắc Nam.
Bài viết này được thực hiện bởi Manabu Sasaki, phóng viên của tờ báo nổi tiếng Asahi Shimbun, đồng thời là một trong những người đầu tiên được có mặt trên chuyến tàu kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản.
19 giờ, chiếc đầu máy mang số hiệu D19E do Trung Quốc sản xuất bắt đầu rời ga, mang theo 13 toa tàu và hàng trăm hành khách. Đây là hành trình Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh nằm trong chuỗi các chuyến đi được lên lịch vận hành tới ngày 23/9, nhằm kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản. Biểu tượng hoa sen và hoa anh đào được trang trí dọc đoàn tàu, hứa hẹn một chuyến đi đầy thú vị.
Vé một chiều hạng nhất có giá khoảng 90 USD, mang tới cho hành khách 33 giờ hành trình trong khoang giường nằm điều hòa. Mức giá này thật ra không hề rẻ, thậm chí còn xấp xỉ bằng vé máy bay giữa hai thành phố.
Bởi phần lớn các toa tàu đều hơn 10 tuổi, nên khung cửa sổ và những chiếc đinh tán kim loại trên giường ngủ đã gỉ sét gần hết. Tuy nhiên, nhà vệ sinh và bồn rửa tay vẫn còn tương đối mới và sạch sẽ.
Không phải toa khách nào cũng được trang bị điều hòa nhiệt độ, nên ở nhiều khu vực, hành khách phải tự làm mát cho bản thân bằng những chiếc quạt giấy. Nhiều nam giới còn chọn giải nhiệt bằng cách cởi cả áo ngoài và đứng gần hành lang tàu, nơi đặc biệt nguy hiểm.
20 giờ 40 phút, đoàn tàu vào ga Nam Định, cách Hà Nội khoảng 70 km về phía nam. Không gian thành thị dần biến mất, và thay vào đó là những vệt sáng thưa thớt của vùng làng quê miền bắc.
Tôi tranh thủ rời khỏi khoang giường nằm của mình và đi bộ dọc các toa tàu, nơi tập trung đủ mọi tầng lớp, từ học sinh, sinh viên, cho tới trí thức và dân lao động nghèo. "Người giàu đi máy bay, còn chúng tôi thì đi tàu, cho dù có tốn thời gian đến mấy", Thắng, một sinh viên 20 tuổi, nói, trước khi ngủ thiếp đi trong khi vẫn ôm chặt chiếc balo.
5 giờ sáng, tàu vào ga Đồng Hới, Quảng Bình, thuộc dải đất miền trung Việt Nam. Một bản nhạc nhẹ vang lên, đánh thức hành khách một cách dịu dàng. Đồng lúa và những căn nhà lợp mái đỏ nâu dần hiện ra trong ánh bình minh.
Hành trình qua những cây cầu
Vài phút sau, tàu rời ga, chậm rãi đi vào một cây cầu đang trong quá trình sửa chữa.
"Chúng tôi đang đại tu nó đấy", Yoshitaka Komuro, 55 tuổi, giám đốc của văn phòng đại diện tại Hà Nội của công ty xây dựng Tekken Corp., Nhật Bản, cho biết.
Chiến tranh, dù vô tình hay cố ý, cũng đã phá hủy rất nhiều cây cầu nối liền hai miền Việt Nam. Tuyến đường sắt bắc - nam cũng vì thế mà bị ảnh hưởng không nhỏ. Nó chỉ thực sự được đưa vào hoạt động một cách ổn định từ năm 1976, và vì thế được coi như một biểu tượng của sự thống nhất đất nước.
Kinh tế phát triển, và những đoàn tàu kém chất lượng cũng dần được thay thế. Nhờ vậy, tốc độ di chuyển bằng đường sắt giữa hai thành phố lớn nhất Việt Nam cũng được cải thiện nhanh chóng.
Thay vì 70 tiếng như trước, hành khách giờ chỉ mất hơn 30 giờ đồng hồ là có thể đi từ Hà Nội tới thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Không chỉ dừng lại ở đó, chính phủ Việt Nam đang lên kế hoạch giảm thiểu thời gian đi tàu xuống còn 24 tiếng.
10 giờ 10, đoàn tàu đi vào hầm đèo Hải Vân, nơi từng được quân đội Pháp, Mỹ và Nhật Bản xây dựng lô cốt thời Thế chiến thứ hai. Khi thấy tôi liên tục nhìn đồng hồ và tỏ ra lo lắng khi phát hiện đoàn tàu đã chậm 30 phút so với lịch trình, một nhân viên đường sắt vui vẻ trấn an: "Đừng lo, không sao đâu!".
Một cô gái Pháp, với đống hành lý cồng kềnh bên người, hào hứng bắt chuyện: "Đoàn tàu này có không khí rất đặc biệt, không giống bất cứ đoàn tàu nào trên thế giới. Tôi đang cảm thấy cực kỳ phấn khích".
Khác với không khí có phần u tối ở phương bắc, bầu trời miền trung dường như tươi sáng hơn rất nhiều. Bỏ lại sau lưng đèo Hải Vân ngút ngàn, thành phố Đà Nẵng, trung tâm kinh tế của miền trung Việt Nam, dần hiện ra trước mắt chúng tôi.
Những chiếc xe đẩy thức ăn trưa, sữa chua cùng nhiều loại đồ ăn khác di chuyển qua lại giữa các toa tàu. Một suất cơm, đi kèm gà luộc hoặc cá nướng, có giá từ 35.000 tới 40.000 đồng. Ngoài ra, hành khách cũng có thể lựa chọn bữa trưa từ những cửa hàng bán đồ ăn vặt, bao gồm ngô luộc, bánh mì hoặc khoai lang, được đặt san sát trước các nhà ga.
Những món ăn ở đó đặc biệt hấp dẫn và khiến nhiều người trong số chúng tôi quyết định tới mua. Tuy nhiên, tàu chỉ thường dừng 5 phút ở mỗi nhà ga, do đó việc ngồi yên trên tàu sẽ là một lựa chọn thông minh hơn. Vì lẽ ấy nên những chiếc xe đẩy đồ ăn, dù không quá phong phú, nhưng vẫn rất được các hành khách ưu ái. Phở, một món ăn trứ danh của Việt Nam, đã bị bán hết trước khi tới được chỗ tôi.
Đoàn tàu lướt qua những cánh đồng xanh ngát, và khiến tôi liên tưởng tới khung cảnh ở làng quê Nhật Bản. Khác biệt duy nhất là thay vì những chiếc máy cày, đồng ruộng ở Việt Nam chỉ có nông dân và đám gia súc đang làm việc.
Không lâu sau 9 giờ tối, một bản nhạc nhẹ lại vang lên, đưa hành khách chìm dần vào giấc ngủ.
Khoang giường nằm của tôi đón thêm những người bạn mới đến từ ga Nha Trang, được biết tới như một địa danh du lịch nổi tiếng. Họ là thành viên của một gia đình và đang trên đường về thành phố Hồ Chí Minh sau chuyến nghỉ dưỡng dài ngày ở gần biển.
4 giờ 5 phút sáng hôm sau, đoàn tàu tiến vào ga Sài Gòn, thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh không thể ngăn tôi chiêm ngưỡng những tòa nhà chọc trời của thành phố lớn và sầm uất bậc nhất Việt Nam. Đoàn tàu, dù gặp phải một số trục trặc, vẫn về đích sớm hơn 5 phút so với lịch trình.
"Tôi đã nói là không sao đâu mà", anh nhân viên đường sắt khi trước nhìn tôi và cười tự hào.
"Không phải cứ nhanh là hay"
Hồi năm 2010, Quốc hội Việt Nam từng tuyên bố sẽ triển khai dự án đường sắt cao tốc Shinkansen, Nhật Bản, nhằm đem tới một diện mạo mới cho hệ thống giao thông nước nhà. Tuy nhiên, bởi mức chi phí khổng lồ, nên quyết định này đã vấp phải không ít những phản đối. Ước tính ban đầu cho thấy, Việt Nam sẽ phải chi khoảng 5 nghìn tỷ yên nếu muốn hiện thực hóa mong muốn sở hữu Shinkansen.
Cuộc tranh luận tạm lắng lại cho tới tháng ba năm nay, khi Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng, cho biết: "Đất nước của chúng tôi vẫn còn nghèo". Tuyên bố này, cùng với thái độ cương quyết của Chính phủ, giống như một dấu chấm hết cho việc đưa dự án này vào hoạt động trong giai đoạn trước mắt.
Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí Nhật Bản, ông Trần Quốc Đông, phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, cho hay: "Mặc dù dự án Shinkansen rất hấp dẫn, nhưng chúng tôi muốn cải thiện hệ thống và dịch vụ của tuyến đường sắt Bắc - Nam hiện tại trước khi tính đến những chuyện xa hơn".
"Không phải cứ nhanh là hay. Việc lên tàu vào buổi tối và tới đích khi trời sáng cũng là một cách để thưởng thức chuyến hành trình", ông nói.
- Theo VnExpress, Asahi Shimbun, internet
Cá chốt kho nghệ
Ở vùng Bạc Liêu, Sóc Trăng ai cũng biết câu ca dao “Bạc Liêu nước chảy lờ đờ/ Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu” (Cũng có câu ca dao “Bạc Liêu là xứ cơ cầu/ Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu”).
Cá chốt có thể nấu canh chua, kho sả ớt, nhưng đặc sắc nhất có lẽ là món cá chốt kho nghệ. Khi mưa xuống, cá chốt từ sông lên đồng đẻ trứng. Đến tháng 7, tháng 8 Âm lịch, nước ngập đồng bưng, cá chốt con nổi đầu, quơ râu hớp bọt như nước cơm sôi.
Sau rằm tháng 10 ta, gió chướng thổi mạnh và nước cũng bắt đầu rút. Trên những bờ bãi ven sông, ven ruộng hay dọc những bờ kinh lau sậy trổ cờ phơ phất; đó cũng là lúc cá chốt trên đồng rút xuống sông rạch.
Ngày trước người ta dùng chài để bắt cá chốt. Cá bắt được phải đong bằng giạ, bằng táo đựng lúa chứ không cân ký vì quá nhiều.
Nhà văn Phan Trung Nghĩa của Bạc Liêu từng kể hồi ông còn nhỏ, từng sống ven sông Bạc Liêu nên tận mắt chứng kiến cá chốt xứ này nhiều tới mức nào: “Bất kể tháng nào trong năm dưới sông Bạc Liêu cũng nhiều cá chốt. Vào những đêm trăng sáng, cầm một nắm đất ném xuống sông, lập tức cá chốt nổi đầu đen đặc quậy trắng mặt sông cỡ chiếc chiếu trải giường…”.
Ngày nay, cá chốt đã ít nên người ta thường đặt lọp, cắm câu, giăng lưới kiếm cá. Ở thôn quê, thường thì mương nước là ranh giới nhà này với nhà kia. Mương thông với sông rộng.
Nước lớn đầy, người ta rải cám dụ cá vào mương rồi dùng đăng bện bằng sống dừa nước chận ngang mương. Khi nước ròng rút cạn thì đắp đập ngang miệng mương, tát nước bắt cá. Cá chốt luôn nhiều nhất trong số các loại cá tép thu hoạch được.
Cá chốt có ba ngạnh bén, người làm cá chẳng may bị ngạnh đâm vào tay sẽ rất đau nhức. Làm cá chốt trước hết cần rắc tro bếp vào rổ cá, chúng vùng vẫy một lúc thì khô nhớt và chết.
Chặt bỏ ngay các ngạnh cá, sau đó cạo, rửa, mổ bụng và làm sạch. Để làm món cá chốt kho nghệ, dĩ nhiên không thể thiếu củ nghệ. Nghệ được cạo sạch vỏ, đâm nhuyễn vắt lấy nước ướp cá cùng với nước mắm, bột ngọt. Chờ cho cá thấm đều gia vị, bắc nồi lên kho nhỏ lửa đến khi sền sệt, cá sẽ có màu vàng ươm.
Khi múc cá ra dĩa, người ta rắc vào thêm ít lá nghệ non xắt nhuyễn, ít lá ớt chín cho đẹp mắt và thơm. Ăn cơm nóng với cá chốt kho nghệ, kèm bông súng, rau mác, lá hẹ nước hay rau càng cua bóp giấm, hoặc dưa môn, dưa điên điển chua… mới thấy sự kết hợp thật hài hòa giữa cá chốt với nghệ, các loại rau sống hay dưa chua càng làm cho món ăn thêm ngon đồng thời rất tốt cho hệ tiêu hóa.
Vậy nên mới có câu ca: Anh đi anh nhớ quê nhà/ Cá chốt kho nghệ đậm đà tình em.
- Theo T.B.X (Doanh Nhân Sàigòn), internet
Cá chốt có thể nấu canh chua, kho sả ớt, nhưng đặc sắc nhất có lẽ là món cá chốt kho nghệ. Khi mưa xuống, cá chốt từ sông lên đồng đẻ trứng. Đến tháng 7, tháng 8 Âm lịch, nước ngập đồng bưng, cá chốt con nổi đầu, quơ râu hớp bọt như nước cơm sôi.
Sau rằm tháng 10 ta, gió chướng thổi mạnh và nước cũng bắt đầu rút. Trên những bờ bãi ven sông, ven ruộng hay dọc những bờ kinh lau sậy trổ cờ phơ phất; đó cũng là lúc cá chốt trên đồng rút xuống sông rạch.
Ngày trước người ta dùng chài để bắt cá chốt. Cá bắt được phải đong bằng giạ, bằng táo đựng lúa chứ không cân ký vì quá nhiều.
Nhà văn Phan Trung Nghĩa của Bạc Liêu từng kể hồi ông còn nhỏ, từng sống ven sông Bạc Liêu nên tận mắt chứng kiến cá chốt xứ này nhiều tới mức nào: “Bất kể tháng nào trong năm dưới sông Bạc Liêu cũng nhiều cá chốt. Vào những đêm trăng sáng, cầm một nắm đất ném xuống sông, lập tức cá chốt nổi đầu đen đặc quậy trắng mặt sông cỡ chiếc chiếu trải giường…”.
Ngày nay, cá chốt đã ít nên người ta thường đặt lọp, cắm câu, giăng lưới kiếm cá. Ở thôn quê, thường thì mương nước là ranh giới nhà này với nhà kia. Mương thông với sông rộng.
Nước lớn đầy, người ta rải cám dụ cá vào mương rồi dùng đăng bện bằng sống dừa nước chận ngang mương. Khi nước ròng rút cạn thì đắp đập ngang miệng mương, tát nước bắt cá. Cá chốt luôn nhiều nhất trong số các loại cá tép thu hoạch được.
Cá chốt có ba ngạnh bén, người làm cá chẳng may bị ngạnh đâm vào tay sẽ rất đau nhức. Làm cá chốt trước hết cần rắc tro bếp vào rổ cá, chúng vùng vẫy một lúc thì khô nhớt và chết.
Chặt bỏ ngay các ngạnh cá, sau đó cạo, rửa, mổ bụng và làm sạch. Để làm món cá chốt kho nghệ, dĩ nhiên không thể thiếu củ nghệ. Nghệ được cạo sạch vỏ, đâm nhuyễn vắt lấy nước ướp cá cùng với nước mắm, bột ngọt. Chờ cho cá thấm đều gia vị, bắc nồi lên kho nhỏ lửa đến khi sền sệt, cá sẽ có màu vàng ươm.
Khi múc cá ra dĩa, người ta rắc vào thêm ít lá nghệ non xắt nhuyễn, ít lá ớt chín cho đẹp mắt và thơm. Ăn cơm nóng với cá chốt kho nghệ, kèm bông súng, rau mác, lá hẹ nước hay rau càng cua bóp giấm, hoặc dưa môn, dưa điên điển chua… mới thấy sự kết hợp thật hài hòa giữa cá chốt với nghệ, các loại rau sống hay dưa chua càng làm cho món ăn thêm ngon đồng thời rất tốt cho hệ tiêu hóa.
Vậy nên mới có câu ca: Anh đi anh nhớ quê nhà/ Cá chốt kho nghệ đậm đà tình em.
- Theo T.B.X (Doanh Nhân Sàigòn), internet
Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013
Hồng Sơn mùa sen nở
Những ngày này, mỗi ai có dịp đi qua đoạn quốc lộ 1A thuộc thôn 4, xã Hồng Sơn (Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận), sẽ bắt gặp bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc của những ao sen nở rộ. Màu sắc rực rỡ, hương thơm dịu nhẹ, khiến mỗi ai qua đây đều phải ngóng lại ngắm nhìn, thưởng thức vẻ đẹp bình dị của những cánh sen hồng.
Nơi đó không chỉ có không gian thoáng đãng, bình yên với cánh đồng lúa rộng mênh mông, xen lẫn những rẫy vườn thanh long xanh bạt ngàn, mà điểm nhấn chính là màu sắc của những ao sen đua nhau nở, tỏa hương khắp cả vùng quê. Từ lâu, địa danh bàu Sen (thôn 1) khu vực xã Hồng Sơn được biết đến đối với nhiều người dân trong xã cũng như khu vực lân cận.
Nhưng đó chỉ là một cái bàu rộng hơn 1.000m² do người dân trong thôn tự trồng trong thời kháng chiến chống chống Mỹ. Năm tháng trôi qua, bàu Sen đó đi vào cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân ngày càng sâu nặng.
Những năm gần đây khi giá trị của sen được nâng lên, người dân lại mở rộng trồng ở các hồ, ao dọc đường - đoạn từ trung tâm UBND xã Hồng Sơn hướng về thành phố Phan Thiết. Gia đình ông Phan Thanh Hà (72 tuổi) ở thôn 4, được mệnh danh là người gắn với những ao sen.
“Ngày đó từ bàu Sen ở thôn 1, tôi mua về 100 gốc để trồng trên diện tích ao nước ở trước sân nhà. Sau thời gian trồng, sen thi nhau mọc và vươn mình, sau đó nở bông màu hồng rất đẹp, tôi tiếp tục nhân rộng ra vài ao kế tiếp. Từ đó sen sinh sản nhanh và lan rộng, người dân xung quanh cũng xin về trồng và gây thành những ao sen liên tiếp đến ngày hôm nay”, ông Hà kể lại.
Từ chỗ trồng một ít ở ao trước nhà, đến nay ông đã nhân rộng thành những ao sen trên diện tích hơn 3.500m2. Theo vị chủ nhân này thì trước đây vài năm, chỉ có vài ao, mỗi năm cho nở hoa một lần vào dịp giữa mùa mưa, còn bây giờ sen nở bốn mùa, có được là nhờ nguồn nước từ hồ Suối Đá dẫn về. Sau mỗi đợt bông, thu hoạch hạt, họ lại cắt bỏ phần thân, cho nước vào nhiều và bón phân để mọc cây mới tiếp tục phát triển cho bông.
Theo tính toán của ông Hà thì trên diện tích trồng sen này, mùa bông nào ông cũng thu hoạch cao gấp 3 lần so với sản xuất lúa. Mỗi khi sen nở vào các ngày rằm hay mùng một, cắt bán với giá 2.000 đồng/ bông. Còn nếu để lấy hạt tươi bán giá 20.000 đồng/ kg, sen hạt phơi khô bán giá 45.000 đồng/kg.
Những ao sen nơi đây cứ đơm bông, kết hạt từng mùa, gắn với bao kỷ niệm, chuyện đời thăng trầm của cuộc sống người dân. Vào những buổi sớm mai ngày sen nở, những khách du lịch trong và ngoài nước khi đi ngang qua đoạn quốc lộ này đều dừng chân ngắm nhìn, ghi lại khoảnh khắc bằng những tấm hình tuyệt đẹp.
Đây cũng là nơi để các tay nhiếp ảnh gia từ Phan Thiết, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng… tìm đến say mê sáng tác chủ đề về sen. Hay những đôi uyên ương chọn làm ngoại cảnh cho bộ album cưới đầy lãng mạn. Ý nghĩa hơn, nhiều người đến đây để tìm kiếm một cảm giác yên bình, thanh thản, tránh đi cái xô bồ, ồn ào nơi phố thị.
Thời gian cứ trôi, đoạn đường quốc lộ 1A qua đây cũng không hề thay đổi, có chăng là sự đổi thay khung cảnh vào những ngày sen nở. Không thể nào tả hết sắc hồng của những cánh sen. Mỗi thời điểm một màu sắc, khi thì rực rỡ khi ngã màu nhạt hơn.
Những đóa sen hồng khẽ đưa trên nền xanh của lá, càng tô thêm bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc. Nhìn từ xa, cạnh ao sen là mấy ngôi nhà mang vẻ xưa cũ, ẩn mình bên hàng trúc lồ ô vàng đang đu đưa, càng làm cho khu vực nơi đây thêm đẹp.
- Theo Khai Tâm (Bình Thuận Online), internet
Nơi đó không chỉ có không gian thoáng đãng, bình yên với cánh đồng lúa rộng mênh mông, xen lẫn những rẫy vườn thanh long xanh bạt ngàn, mà điểm nhấn chính là màu sắc của những ao sen đua nhau nở, tỏa hương khắp cả vùng quê. Từ lâu, địa danh bàu Sen (thôn 1) khu vực xã Hồng Sơn được biết đến đối với nhiều người dân trong xã cũng như khu vực lân cận.
Nhưng đó chỉ là một cái bàu rộng hơn 1.000m² do người dân trong thôn tự trồng trong thời kháng chiến chống chống Mỹ. Năm tháng trôi qua, bàu Sen đó đi vào cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân ngày càng sâu nặng.
Những năm gần đây khi giá trị của sen được nâng lên, người dân lại mở rộng trồng ở các hồ, ao dọc đường - đoạn từ trung tâm UBND xã Hồng Sơn hướng về thành phố Phan Thiết. Gia đình ông Phan Thanh Hà (72 tuổi) ở thôn 4, được mệnh danh là người gắn với những ao sen.
“Ngày đó từ bàu Sen ở thôn 1, tôi mua về 100 gốc để trồng trên diện tích ao nước ở trước sân nhà. Sau thời gian trồng, sen thi nhau mọc và vươn mình, sau đó nở bông màu hồng rất đẹp, tôi tiếp tục nhân rộng ra vài ao kế tiếp. Từ đó sen sinh sản nhanh và lan rộng, người dân xung quanh cũng xin về trồng và gây thành những ao sen liên tiếp đến ngày hôm nay”, ông Hà kể lại.
Từ chỗ trồng một ít ở ao trước nhà, đến nay ông đã nhân rộng thành những ao sen trên diện tích hơn 3.500m2. Theo vị chủ nhân này thì trước đây vài năm, chỉ có vài ao, mỗi năm cho nở hoa một lần vào dịp giữa mùa mưa, còn bây giờ sen nở bốn mùa, có được là nhờ nguồn nước từ hồ Suối Đá dẫn về. Sau mỗi đợt bông, thu hoạch hạt, họ lại cắt bỏ phần thân, cho nước vào nhiều và bón phân để mọc cây mới tiếp tục phát triển cho bông.
Theo tính toán của ông Hà thì trên diện tích trồng sen này, mùa bông nào ông cũng thu hoạch cao gấp 3 lần so với sản xuất lúa. Mỗi khi sen nở vào các ngày rằm hay mùng một, cắt bán với giá 2.000 đồng/ bông. Còn nếu để lấy hạt tươi bán giá 20.000 đồng/ kg, sen hạt phơi khô bán giá 45.000 đồng/kg.
Những ao sen nơi đây cứ đơm bông, kết hạt từng mùa, gắn với bao kỷ niệm, chuyện đời thăng trầm của cuộc sống người dân. Vào những buổi sớm mai ngày sen nở, những khách du lịch trong và ngoài nước khi đi ngang qua đoạn quốc lộ này đều dừng chân ngắm nhìn, ghi lại khoảnh khắc bằng những tấm hình tuyệt đẹp.
Đây cũng là nơi để các tay nhiếp ảnh gia từ Phan Thiết, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng… tìm đến say mê sáng tác chủ đề về sen. Hay những đôi uyên ương chọn làm ngoại cảnh cho bộ album cưới đầy lãng mạn. Ý nghĩa hơn, nhiều người đến đây để tìm kiếm một cảm giác yên bình, thanh thản, tránh đi cái xô bồ, ồn ào nơi phố thị.
Thời gian cứ trôi, đoạn đường quốc lộ 1A qua đây cũng không hề thay đổi, có chăng là sự đổi thay khung cảnh vào những ngày sen nở. Không thể nào tả hết sắc hồng của những cánh sen. Mỗi thời điểm một màu sắc, khi thì rực rỡ khi ngã màu nhạt hơn.
Những đóa sen hồng khẽ đưa trên nền xanh của lá, càng tô thêm bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc. Nhìn từ xa, cạnh ao sen là mấy ngôi nhà mang vẻ xưa cũ, ẩn mình bên hàng trúc lồ ô vàng đang đu đưa, càng làm cho khu vực nơi đây thêm đẹp.
- Theo Khai Tâm (Bình Thuận Online), internet
Thác ba tầng - Nam Trà My
Từ thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam) đi theo tỉnh lộ 616 qua các huyện Tiên Phước, Bắc Trà My. Từ thị trấn Trà My đi gần 50 cây số nữa mới đến trung tâm huyện Nam Trà My.
Đường đi quanh co, khúc khuỷu nhưng khung cảnh hai bên rất đẹp. Rải rác vài nóc nhà của bà con dân tộc thiểu số người Ca Dong ở lưng chừng núi. Một bên núi, một bên sông suối, thỉnh thoảng lại thấy một cây cầu treo hoặc bê tông bắc ngang.
< Thác 3 tầng trên đường Bắc - Nam Trà My.
Đang vào mùa khô nên sông, suối đều cạn hay ít nước. Bỗng dưng giữa trập trùng màu xanh cây lá bắt gặp một ngọn thác tuôn nước trắng xóa, réo rắt giữa khung cảnh yên bình, vắng lặng. Lòng người cũng thấy nhẹ nhàng, thanh thoát.
Thác Ba Tầng cách thị trấn Takpor Nam Trà My khoảng 5km, đẹp và hoang sơ chảy ven triền núi.
Nói là 'ba tầng' nhưng nhiều người nhận định rằng phải gọi là 5 tầng mới chuẩn! Vậy nhưng tên gọi thế nào thì thác vẫn đổ ì ầm suốt ngày đêm giữa vách núi rừng xanh thẳm.
Thác 3 tầng đã trở thành một địa danh cho khách lữ hành dừng chân nhìn ngắm, thư giãn và nếu không ghi lại vài tấm ảnh thì là một thiếu sót đến vô cùng!
Mê hoặc núi rừng Nam Trà My
- Tổng hợp từ Lao Động, Forum Phượt
Đường đi quanh co, khúc khuỷu nhưng khung cảnh hai bên rất đẹp. Rải rác vài nóc nhà của bà con dân tộc thiểu số người Ca Dong ở lưng chừng núi. Một bên núi, một bên sông suối, thỉnh thoảng lại thấy một cây cầu treo hoặc bê tông bắc ngang.
< Thác 3 tầng trên đường Bắc - Nam Trà My.
Đang vào mùa khô nên sông, suối đều cạn hay ít nước. Bỗng dưng giữa trập trùng màu xanh cây lá bắt gặp một ngọn thác tuôn nước trắng xóa, réo rắt giữa khung cảnh yên bình, vắng lặng. Lòng người cũng thấy nhẹ nhàng, thanh thoát.
Thác Ba Tầng cách thị trấn Takpor Nam Trà My khoảng 5km, đẹp và hoang sơ chảy ven triền núi.
Nói là 'ba tầng' nhưng nhiều người nhận định rằng phải gọi là 5 tầng mới chuẩn! Vậy nhưng tên gọi thế nào thì thác vẫn đổ ì ầm suốt ngày đêm giữa vách núi rừng xanh thẳm.
Thác 3 tầng đã trở thành một địa danh cho khách lữ hành dừng chân nhìn ngắm, thư giãn và nếu không ghi lại vài tấm ảnh thì là một thiếu sót đến vô cùng!
Mê hoặc núi rừng Nam Trà My
- Tổng hợp từ Lao Động, Forum Phượt
Lặng lẽ đảo đá Ba Mom
Trạm Quản lý đường sông Ba Mom (nằm trên vịnh Hạ Long, thuộc Công ty Cổ phần Quản lý đường sông số 3), là trạm duy nhất của phía Bắc nằm biệt lập trên một đảo đá, không hề có dân cư.
Muốn ra đảo phải đi nhờ chiếc tàu hàng nào đó chạy qua luồng Hòn Gai - Ba Mom, rồi gọi đò đánh cá “tăng bo” vào đảo. Ông Dương Văn Thời - người lái xuồng đưa chúng tôi ra đảo, từng 10 năm làm việc tại Trạm QLĐS Ba Mom; còn ông Nguyễn Hoài Nhơn - Phó giám đốc công ty, cũng từng “cắm chốt” ở đảo vài tháng hồi 1970. Ông Thời kể: “Hồi ở Ba Mom, lần nào ra đảo phải đi nhờ tàu qua tuyến, khi gần đến nơi thì cởi quần áo ra, cuốn nilon, đeo vào người rồi nhảy xuống nước, tự bơi vào”.
< Dĩn đốt.
Biển chiều cuối năm lặng gió, nhưng cũng phải hơn 1 giờ đồng hồ chúng tôi mới trông thấy đảo đá Ba Mom thấp thoáng phía trước, với ngôi nhà màu vàng, có lá cờ đỏ bay phấp phới. Nhìn từ xa, đảo Ba Mom rộng chừng vài ngàn mét vuông bốn bề là nước, đâu đâu cũng toàn thấy đá dựng lởm chởm, xen lẫn là cây dại. Biết tôi sẽ qua đêm trên đảo, ông Thời dặn dò: “Đêm trên đảo nhiều dĩn lắm, nếu giết nó, những con khác thấy mùi máu sẽ bu đến đông hơn. Lại có nhiều rắn lục, ban đêm đừng đứng gần các hốc đá...”.
Chỉ vào đảo Ba Mom, Phó giám đốc Nguyễn Hoài Nhơn giới thiệu vắn tắt, nhà trạm nằm cách mặt nước biển 30m, được xây dựng từ những năm 1960. Cuối năm 2001, một dự án của Chính phủ Canada tài trợ cho xây tại đây thêm 2 phòng, dùng để phục vụ sơ cấp cứu y tế trong khu vực và dạy học cho con em dân chài. Trạm có 9 người, được giao quản lý đoạn tuyến dài 52km, là tuyến đường thủy kiểu mẫu quan trọng, nối cửa khẩu quốc tế Móng Cái và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, trung bình mỗi tháng có hơn 17.000 lượt phương tiện qua lại.
Ông Nguyễn Minh Tuân - Trạm trưởng, xuống tận mép nước đón, dẫn chúng tôi gần trăm bậc cầu thang để lên nhà trạm, tranh thủ trò chuyện: “Anh em trên đảo coi nhau như gia đình. Do điều kiện sống, công tác ở đây khắc nghiệt nên gần đây công ty thường luân chuyển nhân sự vài năm một lần. Nếu ở đây lâu quá e rằng có công nhân sẽ ế vợ...”. Biết được điều này nên tôi không quá bất ngờ khi gặp lại anh Ngô Doãn Tâm - người chỉ vài tháng trước còn là trạm phó một trạm trong đất liền, nay được điều chuyển thành Trạm phó đảo Ba Mom. Người có thâm niên lâu nhất chính là Trạm trưởng Nguyễn Minh Tuân với 17 năm liên tục làm việc tại đây. Đáng ra ông Tuân có thể về trạm nào đó trong đất liền, nhưng ông bảo, ở đây lâu rồi thành quen.
Ông Tuân nói vui: “Nhà báo thấy không khí trong lành không. Ai ra đây cũng khen phong cảnh đẹp đấy, nhưng hỏi đùa rằng có thể ở đây một tuần không, thì đều lắc đầu”. Cuộc sống ở trạm luôn khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Từ mớ rau, quả trứng đến lon nước ngọt, điếu thuốc hay các vật dụng sinh hoạt cũng đều đắt đỏ gấp 3 - 4 lần so với trong đất liền. Anh em trên đảo muốn trồng một vạt rau hay thả giàn mướp cũng không có đất để trồng, hoặc nếu thả được gốc mướp vào hốc đá thì ngọn mướp cũng không sống được trước sự khắc nghiệt của gió biển, có chăng chỉ trồng được những khóm xương rồng hay cây sống đời.
Chẳng thế mà, có đợt một ngọn mướp nở hoa được trên đảo đá Ba Mom đã trở thành nguồn cảm hứng thơ: “Lách hòn đá tím mướp bò ra/ Lứa vừa rụng rốn lứa ra hoa/ Ước chi có mẹ ra chơi đảo/ Ngọt bát canh tôm tựa quê nhà”... Ngay cả chuyện nuôi các con vật ở đảo cũng khó. Nhiều lần anh em đã thử nuôi gà, mèo, nhưng lần nào gà cũng bị chuột ăn hết, còn mèo thì tự nhiên sợ người và bỏ đi hoang.
Cam go nhất là nước ngọt và điện sinh hoạt, ngày nào mọi người cũng phải dè sẻn từng ca nước, từng giờ chạy máy phát điện.
Trạm đã xây được bể chứa nước mưa, nhưng chỉ đủ dùng trong hơn nửa năm, anh em phải bỏ tiền túi thuê tàu chở nước ngọt từ đất liền ra. Từ cán bộ đến nhân viên đều phải tiết kiệm tối đa việc sử dụng nước, đến nỗi quy ước với nhau rằng nếu ai sắp được về nghỉ phép hoặc vào đất liền thì hạn chế tắm và “để dành” quần áo bẩn vào đất liền “giặt một thể”. Nguồn điện sinh hoạt ở đây phụ thuộc cả vào chiếc máy phát... dành cho nạp ắc quy. Xăng dầu dùng cho máy phát đã khoán theo định mức, nên anh em cũng chủ yếu “dùng ké” để xem thời sự buổi tối trên tivi. Đã thế, chiếc máy phát điện này thường trục trặc, có khi phải sửa hàng chục ngày mới xong.
Điều kiện địa lý như vậy nên không ít lần trong mùa giông gió, anh em nhà đèn không mua được thực phẩm, phải ăn mỳ tôm, gạo rang, đu đủ thay cơm.
Sau những giờ làm việc dưới nước thì chỉ còn biết đi lại trong mấy chục mét vuông nhà trạm. Trạm phó Ngô Doãn Tâm, nhà chỉ cách trạm chừng 2 - 3 cây số theo đường chim bay, nhưng dù có muốn mỗi tuần về nhà một lần cũng không được vì không có phương tiện. Ngay cả Trạm trưởng Nguyên Minh Tuân, vẫn còn cảm giác ngậm ngùi khi nhắc đến những ngày giáp Tết, cả trạm chỉ còn hai người ở lại trực, buổi chiều buồn quá ra hành lang nhà trạm nhìn xuống biển, có lúc gặp tàu người quen đi qua vẫy tay chào và chúc “ở lại ăn Tết vui vẻ” mà thấy rưng rưng nỗi nhớ nhà.
Dẫu vậy, nhưng cán bộ, công nhân của Trạm QLĐS Ba Mom vẫn luôn vững vàng và trách nhiệm trong công việc, dù trong thời tiết giông gió hay đêm tối vẫn kịp thời có mặt trên tuyến để giải quyết những sự vụ liên quan đến ATGT luồng tuyến.
Tôi lướt nhanh cuốn sổ công tác năm 2011 của trạm, phần nào thấy được điều đó: “4h sáng ngày 25/2, đơn vị có mặt tại Km 15 để chốt trực đảm bảo giao thông sau khi nhận được tin sà lan NĐ-1748 chở 400 tấn clinke va vào núi bị đắm; 3h sáng ngày 6/7, chốt trực tại Km 9 sau khi tàu HD-0199 đâm va tàu QN-1748 gây đắm; 5h sáng 24/8, chốt trực tại hiện trường đầu Cửa Lục - nơi tàu tàu NB-2378 chở gần 300 tấn hàng bị lật úp; 21h ngày 30/8, chốt trực tại cửa Ba Hang, nơi tàu HD-1348 bị chìm...”.
Sự đóng góp thầm lặng của những người thợ đường thủy ở Trạm Ba Mom không chỉ mang lại sự bình yên luồng tuyến, mà còn cứu giúp nhiều người dân. Trạm QLĐS Ba Mom từng cấp cứu kịp thời 5 nạn nhân bị tai nạn lao động nguy hiểm như thủng dạ dày, bất tỉnh vì chấn thương, rắn độc cắn... Những năm 1986 - 1987, “nhà đèn” Ba Mom còn được nhiều người biết đến với chiến công bắt gọn toán cướp có vũ khí, giao cho Công an huyện Yên Hưng, Quảng Ninh.
- Theo Thanh Lộc (báo Giao Thông Vận Tải), internet
Muốn ra đảo phải đi nhờ chiếc tàu hàng nào đó chạy qua luồng Hòn Gai - Ba Mom, rồi gọi đò đánh cá “tăng bo” vào đảo. Ông Dương Văn Thời - người lái xuồng đưa chúng tôi ra đảo, từng 10 năm làm việc tại Trạm QLĐS Ba Mom; còn ông Nguyễn Hoài Nhơn - Phó giám đốc công ty, cũng từng “cắm chốt” ở đảo vài tháng hồi 1970. Ông Thời kể: “Hồi ở Ba Mom, lần nào ra đảo phải đi nhờ tàu qua tuyến, khi gần đến nơi thì cởi quần áo ra, cuốn nilon, đeo vào người rồi nhảy xuống nước, tự bơi vào”.
< Dĩn đốt.
Biển chiều cuối năm lặng gió, nhưng cũng phải hơn 1 giờ đồng hồ chúng tôi mới trông thấy đảo đá Ba Mom thấp thoáng phía trước, với ngôi nhà màu vàng, có lá cờ đỏ bay phấp phới. Nhìn từ xa, đảo Ba Mom rộng chừng vài ngàn mét vuông bốn bề là nước, đâu đâu cũng toàn thấy đá dựng lởm chởm, xen lẫn là cây dại. Biết tôi sẽ qua đêm trên đảo, ông Thời dặn dò: “Đêm trên đảo nhiều dĩn lắm, nếu giết nó, những con khác thấy mùi máu sẽ bu đến đông hơn. Lại có nhiều rắn lục, ban đêm đừng đứng gần các hốc đá...”.
Chỉ vào đảo Ba Mom, Phó giám đốc Nguyễn Hoài Nhơn giới thiệu vắn tắt, nhà trạm nằm cách mặt nước biển 30m, được xây dựng từ những năm 1960. Cuối năm 2001, một dự án của Chính phủ Canada tài trợ cho xây tại đây thêm 2 phòng, dùng để phục vụ sơ cấp cứu y tế trong khu vực và dạy học cho con em dân chài. Trạm có 9 người, được giao quản lý đoạn tuyến dài 52km, là tuyến đường thủy kiểu mẫu quan trọng, nối cửa khẩu quốc tế Móng Cái và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, trung bình mỗi tháng có hơn 17.000 lượt phương tiện qua lại.
Ông Nguyễn Minh Tuân - Trạm trưởng, xuống tận mép nước đón, dẫn chúng tôi gần trăm bậc cầu thang để lên nhà trạm, tranh thủ trò chuyện: “Anh em trên đảo coi nhau như gia đình. Do điều kiện sống, công tác ở đây khắc nghiệt nên gần đây công ty thường luân chuyển nhân sự vài năm một lần. Nếu ở đây lâu quá e rằng có công nhân sẽ ế vợ...”. Biết được điều này nên tôi không quá bất ngờ khi gặp lại anh Ngô Doãn Tâm - người chỉ vài tháng trước còn là trạm phó một trạm trong đất liền, nay được điều chuyển thành Trạm phó đảo Ba Mom. Người có thâm niên lâu nhất chính là Trạm trưởng Nguyễn Minh Tuân với 17 năm liên tục làm việc tại đây. Đáng ra ông Tuân có thể về trạm nào đó trong đất liền, nhưng ông bảo, ở đây lâu rồi thành quen.
Ông Tuân nói vui: “Nhà báo thấy không khí trong lành không. Ai ra đây cũng khen phong cảnh đẹp đấy, nhưng hỏi đùa rằng có thể ở đây một tuần không, thì đều lắc đầu”. Cuộc sống ở trạm luôn khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Từ mớ rau, quả trứng đến lon nước ngọt, điếu thuốc hay các vật dụng sinh hoạt cũng đều đắt đỏ gấp 3 - 4 lần so với trong đất liền. Anh em trên đảo muốn trồng một vạt rau hay thả giàn mướp cũng không có đất để trồng, hoặc nếu thả được gốc mướp vào hốc đá thì ngọn mướp cũng không sống được trước sự khắc nghiệt của gió biển, có chăng chỉ trồng được những khóm xương rồng hay cây sống đời.
Chẳng thế mà, có đợt một ngọn mướp nở hoa được trên đảo đá Ba Mom đã trở thành nguồn cảm hứng thơ: “Lách hòn đá tím mướp bò ra/ Lứa vừa rụng rốn lứa ra hoa/ Ước chi có mẹ ra chơi đảo/ Ngọt bát canh tôm tựa quê nhà”... Ngay cả chuyện nuôi các con vật ở đảo cũng khó. Nhiều lần anh em đã thử nuôi gà, mèo, nhưng lần nào gà cũng bị chuột ăn hết, còn mèo thì tự nhiên sợ người và bỏ đi hoang.
Cam go nhất là nước ngọt và điện sinh hoạt, ngày nào mọi người cũng phải dè sẻn từng ca nước, từng giờ chạy máy phát điện.
Trạm đã xây được bể chứa nước mưa, nhưng chỉ đủ dùng trong hơn nửa năm, anh em phải bỏ tiền túi thuê tàu chở nước ngọt từ đất liền ra. Từ cán bộ đến nhân viên đều phải tiết kiệm tối đa việc sử dụng nước, đến nỗi quy ước với nhau rằng nếu ai sắp được về nghỉ phép hoặc vào đất liền thì hạn chế tắm và “để dành” quần áo bẩn vào đất liền “giặt một thể”. Nguồn điện sinh hoạt ở đây phụ thuộc cả vào chiếc máy phát... dành cho nạp ắc quy. Xăng dầu dùng cho máy phát đã khoán theo định mức, nên anh em cũng chủ yếu “dùng ké” để xem thời sự buổi tối trên tivi. Đã thế, chiếc máy phát điện này thường trục trặc, có khi phải sửa hàng chục ngày mới xong.
Điều kiện địa lý như vậy nên không ít lần trong mùa giông gió, anh em nhà đèn không mua được thực phẩm, phải ăn mỳ tôm, gạo rang, đu đủ thay cơm.
Sau những giờ làm việc dưới nước thì chỉ còn biết đi lại trong mấy chục mét vuông nhà trạm. Trạm phó Ngô Doãn Tâm, nhà chỉ cách trạm chừng 2 - 3 cây số theo đường chim bay, nhưng dù có muốn mỗi tuần về nhà một lần cũng không được vì không có phương tiện. Ngay cả Trạm trưởng Nguyên Minh Tuân, vẫn còn cảm giác ngậm ngùi khi nhắc đến những ngày giáp Tết, cả trạm chỉ còn hai người ở lại trực, buổi chiều buồn quá ra hành lang nhà trạm nhìn xuống biển, có lúc gặp tàu người quen đi qua vẫy tay chào và chúc “ở lại ăn Tết vui vẻ” mà thấy rưng rưng nỗi nhớ nhà.
Dẫu vậy, nhưng cán bộ, công nhân của Trạm QLĐS Ba Mom vẫn luôn vững vàng và trách nhiệm trong công việc, dù trong thời tiết giông gió hay đêm tối vẫn kịp thời có mặt trên tuyến để giải quyết những sự vụ liên quan đến ATGT luồng tuyến.
Tôi lướt nhanh cuốn sổ công tác năm 2011 của trạm, phần nào thấy được điều đó: “4h sáng ngày 25/2, đơn vị có mặt tại Km 15 để chốt trực đảm bảo giao thông sau khi nhận được tin sà lan NĐ-1748 chở 400 tấn clinke va vào núi bị đắm; 3h sáng ngày 6/7, chốt trực tại Km 9 sau khi tàu HD-0199 đâm va tàu QN-1748 gây đắm; 5h sáng 24/8, chốt trực tại hiện trường đầu Cửa Lục - nơi tàu tàu NB-2378 chở gần 300 tấn hàng bị lật úp; 21h ngày 30/8, chốt trực tại cửa Ba Hang, nơi tàu HD-1348 bị chìm...”.
Sự đóng góp thầm lặng của những người thợ đường thủy ở Trạm Ba Mom không chỉ mang lại sự bình yên luồng tuyến, mà còn cứu giúp nhiều người dân. Trạm QLĐS Ba Mom từng cấp cứu kịp thời 5 nạn nhân bị tai nạn lao động nguy hiểm như thủng dạ dày, bất tỉnh vì chấn thương, rắn độc cắn... Những năm 1986 - 1987, “nhà đèn” Ba Mom còn được nhiều người biết đến với chiến công bắt gọn toán cướp có vũ khí, giao cho Công an huyện Yên Hưng, Quảng Ninh.
- Theo Thanh Lộc (báo Giao Thông Vận Tải), internet
Kỳ thú hang Tiên Ông ở Hạ Long
Hang Tiên Ông - còn gọi là hang Cái Đục (bản đồ của người Pháp trước gọi là Grotle du Cieau) nằm trên đảo Cái Tai, thuộc cụm đảo Hang Trai, ngay sau lưng làng chài Cửa Vạn trên Vịnh Hạ Long.
75 năm trước, năm 1938, nhà khảo cổ học người Thụy Điển tên là J.Anderson đã có chuyến hành trình khảo sát dấu tích người Việt cổ dọc ven bờ và trên các đảo thuộc Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, trong đó có hang Tiên Ông.
Tại đây, ông đã phát hiện những lớp trầm tích khổng lồ chứa đầy vỏ ốc suối và một số công cụ bằng đá cuội khá thô sơ. Hang Tiên Ông đã được đánh dấu là điểm di tích khảo cổ trên bản đồ phân bố các di chỉ của người Hạ Long cổ trên Vịnh Hạ Long kể từ phát hiện đó.
Nếu như hầu hết các hang động trên Vịnh Hạ Long có đặc điểm chung là miệng hang vừa phải, hoặc khi vào trong hang, lòng hang rất rộng thì hang Tiên Ông lại có cấu tạo gần như ngược lại. Miệng hang rất rộng (70m), giống như một “hàm ếch”, nền hang cao cách mặt biển ngày nay khoảng 5m.
Bên ngoài cửa hang có khá nhiều khối thạch nhũ rơi xuống - dấu vết kiến tạo địa chất của tự nhiên. Lòng hang dốc dần vào trong, sâu khoảng 50m. Theo khảo sát của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, lòng hang Tiên Ông rộng ước khoảng hơn 1.000m². Ở khoảng giữa hang, các măng, nhũ đá buông từ trên xuống và cả mọc từ dưới lên như tạo thành bức bình phong, chia hang thành hai ngăn.
Tại ngăn phía trong có một khối nhũ đá, trông xa gần giống hình một ông bụt, người dân chài lấy đó mà gọi tên hang là hang Tiên Ông. Do mặt hang quay về hướng đông nam, trước cửa hang lại có nhiều khối thạch nhũ rơi xuống kê chắn nên không khí trong hang luôn thoáng đãng, mát về mùa hè, mùa đông thì tránh được đáng kể những cơn gió lạnh.
Ngày 17-11-2007, sau nhiều lần khảo sát, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành khai quật một số điểm trong hang Tiên Ông với tổng diện tích 60m2. Kết quả đã thu được một số công cụ bằng đá gồm rìu đá, dao đá, các mảnh gốm, xương động vật trên cạn v.v.. Các công cụ đá chế tác còn khá thô sơ, mới chỉ là ghè một mặt hoặc hai mặt trên bề mặt công cụ.
Đặc biệt, chiếm số lượng nhiều nhất là các lớp trầm tích vỏ của loài ốc nước ngọt (97%) gồm ốc núi (có tên khoa học là Cyclophorus) và ốc suối (Melania); còn lại là vỏ các loài nhuyễn thể nước mặn như hà, sò v.v..
Theo các báo cáo khoa học công bố sau đó thì hang Tiên Ông chính là một trong những điểm cư trú, sinh sống của người Hạ Long cổ, cách ngày nay khoảng 10.000-8.000 năm, tương đương với di chỉ hang Soi Nhụ trên Vịnh Bái Tử Long, thuộc giai đoạn Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (sơ kỳ đá mới).
Sự xuất hiện của nhiều vỏ ốc nước ngọt được coi là tàn tích thức ăn của người Hạ Long cổ trong hang Tiên Ông cho thấy vào giai đoạn 1 vạn năm trước, nơi đây vẫn còn là lục địa. Kết luận này của các nhà khảo cổ phù hợp với nghiên cứu của các nhà địa chất học về lịch sử hình thành Vịnh Hạ Long.
Với đặc điểm chung, phương thức sống của người Việt cổ giai đoạn sơ kỳ đá mới là hái lượm và săn bắn, người Hạ Long cổ ở hang Tiên Ông đã khai thác nguồn thức ăn tự nhiên từ sông, suối và bước đầu khai thác các sản vật biển. Họ đã lấy hang Tiên Ông làm ngôi nhà tự nhiên cho mình để cư trú.
Tháng 11-2011, theo quyết định phê duyệt của UBND tỉnh, hang Tiên Ông được mở cửa đưa khách vào tham quan, nằm trong tuyến du lịch cùng với Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn, làng chài Cửa Vạn, hồ Ba Hầm. Cùng với những hang động như Mê Cung, Thiên Long, Soi Nhụ, Đông Trong… hang Tiên Ông là một địa chỉ không thể bỏ qua của các nhà khoa học cũng như du khách nào muốn tìm hiểu về lịch sử cư trú của người Hạ Long cổ trên Vịnh Hạ Long.
- Theo báo Quảng Ninh cùng nhiều nguồn ảnh khác.
75 năm trước, năm 1938, nhà khảo cổ học người Thụy Điển tên là J.Anderson đã có chuyến hành trình khảo sát dấu tích người Việt cổ dọc ven bờ và trên các đảo thuộc Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, trong đó có hang Tiên Ông.
Tại đây, ông đã phát hiện những lớp trầm tích khổng lồ chứa đầy vỏ ốc suối và một số công cụ bằng đá cuội khá thô sơ. Hang Tiên Ông đã được đánh dấu là điểm di tích khảo cổ trên bản đồ phân bố các di chỉ của người Hạ Long cổ trên Vịnh Hạ Long kể từ phát hiện đó.
Nếu như hầu hết các hang động trên Vịnh Hạ Long có đặc điểm chung là miệng hang vừa phải, hoặc khi vào trong hang, lòng hang rất rộng thì hang Tiên Ông lại có cấu tạo gần như ngược lại. Miệng hang rất rộng (70m), giống như một “hàm ếch”, nền hang cao cách mặt biển ngày nay khoảng 5m.
Bên ngoài cửa hang có khá nhiều khối thạch nhũ rơi xuống - dấu vết kiến tạo địa chất của tự nhiên. Lòng hang dốc dần vào trong, sâu khoảng 50m. Theo khảo sát của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, lòng hang Tiên Ông rộng ước khoảng hơn 1.000m². Ở khoảng giữa hang, các măng, nhũ đá buông từ trên xuống và cả mọc từ dưới lên như tạo thành bức bình phong, chia hang thành hai ngăn.Tại ngăn phía trong có một khối nhũ đá, trông xa gần giống hình một ông bụt, người dân chài lấy đó mà gọi tên hang là hang Tiên Ông. Do mặt hang quay về hướng đông nam, trước cửa hang lại có nhiều khối thạch nhũ rơi xuống kê chắn nên không khí trong hang luôn thoáng đãng, mát về mùa hè, mùa đông thì tránh được đáng kể những cơn gió lạnh.
Ngày 17-11-2007, sau nhiều lần khảo sát, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành khai quật một số điểm trong hang Tiên Ông với tổng diện tích 60m2. Kết quả đã thu được một số công cụ bằng đá gồm rìu đá, dao đá, các mảnh gốm, xương động vật trên cạn v.v.. Các công cụ đá chế tác còn khá thô sơ, mới chỉ là ghè một mặt hoặc hai mặt trên bề mặt công cụ.
Đặc biệt, chiếm số lượng nhiều nhất là các lớp trầm tích vỏ của loài ốc nước ngọt (97%) gồm ốc núi (có tên khoa học là Cyclophorus) và ốc suối (Melania); còn lại là vỏ các loài nhuyễn thể nước mặn như hà, sò v.v..
Theo các báo cáo khoa học công bố sau đó thì hang Tiên Ông chính là một trong những điểm cư trú, sinh sống của người Hạ Long cổ, cách ngày nay khoảng 10.000-8.000 năm, tương đương với di chỉ hang Soi Nhụ trên Vịnh Bái Tử Long, thuộc giai đoạn Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (sơ kỳ đá mới).Sự xuất hiện của nhiều vỏ ốc nước ngọt được coi là tàn tích thức ăn của người Hạ Long cổ trong hang Tiên Ông cho thấy vào giai đoạn 1 vạn năm trước, nơi đây vẫn còn là lục địa. Kết luận này của các nhà khảo cổ phù hợp với nghiên cứu của các nhà địa chất học về lịch sử hình thành Vịnh Hạ Long.
Với đặc điểm chung, phương thức sống của người Việt cổ giai đoạn sơ kỳ đá mới là hái lượm và săn bắn, người Hạ Long cổ ở hang Tiên Ông đã khai thác nguồn thức ăn tự nhiên từ sông, suối và bước đầu khai thác các sản vật biển. Họ đã lấy hang Tiên Ông làm ngôi nhà tự nhiên cho mình để cư trú.
Tháng 11-2011, theo quyết định phê duyệt của UBND tỉnh, hang Tiên Ông được mở cửa đưa khách vào tham quan, nằm trong tuyến du lịch cùng với Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn, làng chài Cửa Vạn, hồ Ba Hầm. Cùng với những hang động như Mê Cung, Thiên Long, Soi Nhụ, Đông Trong… hang Tiên Ông là một địa chỉ không thể bỏ qua của các nhà khoa học cũng như du khách nào muốn tìm hiểu về lịch sử cư trú của người Hạ Long cổ trên Vịnh Hạ Long.
- Theo báo Quảng Ninh cùng nhiều nguồn ảnh khác.
Vãn cảnh chùa cổ Cần Thơ
Tại TP Cần Thơ, hiện có khá nhiều ngôi chùa cổ trên 100 năm tuổi. Ngoài nét độc đáo kiến trúc cổ xưa, những chùa này còn gắn bó mật thiết với lịch sử cách mạng địa phương, là di tích văn hoá lịch sử quốc gia, thu hút rất nhiều khách đến tham quan.
< Cổng chùa Nam Nhã tại Cần Thơ.
Năm 1895, lão thái Nguyễn Giác Duyên dẹp bỏ tiệm thuốc Bắc hiệu tiệm là Nam Nhã để lập chùa Nam Nhã (còn gọi là chùa Minh Sư hay Đức Tế Phật Đường) tại làng Long Tuyền nay thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa.
Từ năm 1907-1940, chùa Nam Nhã là trụ sở chính của phong trào Đông Du, là nơi hội họp, hoạt động chỉ đạo chống Pháp của Phan Bội Châu, Nguyễn Hào Vĩnh...
Đây còn là nơi hoạ thơ, bình thơ, xuất bản nhiều áng văn, thơ kêu gọi chống Pháp, mở mang sự học, đòi hỏi sự tiến bộ công bằng, tiêu biểu nhất là văn phẩm Đạo Nam Kinh bị Pháp lùng sục cấm đoán ngày đêm. Trong đó, diễn ca có đoạn:
“Trăm ngành học, học chi cũng được,
Học Thiên văn, rồi học Địa dư.
Học Toán pháp, học Binh thư,
Canh nông học hoá, lập thư viện đường”.
Chùa Nam Nhã toạ lạc trên diện tích hàng chục héc-ta, được xây dựng khá đẹp và cổ kính, trồng nhiều cây trắc, tùng, cổ thụ, cây cảnh hàng trăm tuổi. Chính điện có năm gian, bên phải là Đông Lan Đường giành cho nam giới, bên trái là Tây Lan Đường giành cho nữ giới.
Chùa chủ trương an chay nhưng tu sĩ không cạo đầu, không mặc áo nâu sồng, sản xuất tự lực để bảo đảm cuộc sống trọn vẹn đường tu. Năm 1991, chùa được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Chùa Hội Linh từng một thời nuôi chứa cơ sở hoạt động cách mạng, trở thành địa chỉ đỏ được công nhận di tích lịch sử văn hoá năm 1993. Chùa được xây dựng năm 1907 trên diện tích một héc-ta tại thôn Thái Bình, Tổng Định Bảo, nay là phường Bùi Hữu Nghĩa. Trước đây, chùa có tên là Xẻo Cạn do có con rạch cạn trước cửa nhưng nay đã bị lấp. Năm 1914, chùa mới có tên là Hội Linh Cổ Tự.
Nét độc đáo của chùa là sự lưu giữ bố trí khá nhiều hiện vật cổ rất có giá trị giữ gìn bản sắc văn hoá Việt như: trình tự sắp xếp mai, lan, trúc, sen, hồng hay long, quy, phụng, hươu...
Ấn tượng nhất là bộ binh khí 16 món vũ khí sáng choang, 66 bức tượng các loại bằng gỗ, xi-măng, thạch cao, đồng, bàn ghế cẩn xà cừ; các cột gỗ có đường kính 25 cm được bào bóng loáng...
Chính điện của chùa thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tượng Phật, trước và sau có miễu thờ thổ thần, có ao sen, bảo tháp...
Từ năm 1941 đây là địa chỉ đỏ nuôi chứa cán bộ cách mạng hoạt động nội ô Cần Thơ, tiếp đón, phục vụ trên 200 gia đình đến thăm nuôi chiến sĩ ta bị tù đày tại trại tù của địch. Đặc biệt, năm 1941, để bảo vệ an toàn cán bộ ta, hoà thượng trụ trì đã đốt cháy một phần chánh điện (sau này đã được trùng tu).
Chùa Hội Linh còn là địa chỉ tổ chức nhiều hoạt động xã hội từ thiện như: giúp đỡ người nghèo, học sinh gặp khó khăn có đủ điều kiến đến trường, xây dựng nhà tình thương, chỗ nghỉ và ăn uống cho các sĩ tử đến Cần Thơ dự thi đại học, cao đẳng hằng năm. Đây còn làm điểm để sinh hoạt giáo dục truyền thống cách mạng cho rất nhiều thanh - thiếu nhi tại địa phương.
Chùa Long Quang có từ thời Vua Minh Mạng thứ 5 (năm 1825). Chùa nằm trên khu vực Bình Nhựt B, phường Long Hoà, quận Bình Thuỷ, TP Cần Thơ, cách trung tâm TP Cần Thơ khoảng 10 km. Chùa lúc đầu là một am nhỏ được nhà sư Võ Văn Quyền tự lập, đến năm 1835 phát triển thành ngôi chùa đặt tên “Long Trường Tự”.
Năm 1860-1861 tên chùa đổi lại là Long Quang Tự. Năm 1966 xây dựng lại và đổi tên chùa là “Long Quang Cổ Tự”. Long Quang Cổ Tự tính đến nay đã trải qua 180 năm, là công trình kiến trúc nghệ thuật tôn giáo cũng như nhiều ngôi chùa khác, nhưng bên trong nội thất có hệ thống tượng Phật bằng gỗ được chạm trổ rất độc đáo. Tiêu biểu là nhóm tượng Phật La Hán được coi là nhóm tượng quý, đẹp, được cấu trúc, bố cục hài hoà, vững chắc trên chất liệu gỗ, là công trình điêu khắc mang tính riêng, lạ và độc đáo.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Long Quang còn là nơi nuôi chứa, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ hoạt động ở vùng ven và ngoại thành Cần Thơ. Ngày 21/6/1993, chùa Long Quang được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
- Theo Triệu Mỹ Ngọc (báo Cà Mau), ảnh internet
< Cổng chùa Nam Nhã tại Cần Thơ.
Năm 1895, lão thái Nguyễn Giác Duyên dẹp bỏ tiệm thuốc Bắc hiệu tiệm là Nam Nhã để lập chùa Nam Nhã (còn gọi là chùa Minh Sư hay Đức Tế Phật Đường) tại làng Long Tuyền nay thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa.
Từ năm 1907-1940, chùa Nam Nhã là trụ sở chính của phong trào Đông Du, là nơi hội họp, hoạt động chỉ đạo chống Pháp của Phan Bội Châu, Nguyễn Hào Vĩnh...
Đây còn là nơi hoạ thơ, bình thơ, xuất bản nhiều áng văn, thơ kêu gọi chống Pháp, mở mang sự học, đòi hỏi sự tiến bộ công bằng, tiêu biểu nhất là văn phẩm Đạo Nam Kinh bị Pháp lùng sục cấm đoán ngày đêm. Trong đó, diễn ca có đoạn:
“Trăm ngành học, học chi cũng được,
Học Thiên văn, rồi học Địa dư.
Học Toán pháp, học Binh thư,
Canh nông học hoá, lập thư viện đường”.
Chùa Nam Nhã toạ lạc trên diện tích hàng chục héc-ta, được xây dựng khá đẹp và cổ kính, trồng nhiều cây trắc, tùng, cổ thụ, cây cảnh hàng trăm tuổi. Chính điện có năm gian, bên phải là Đông Lan Đường giành cho nam giới, bên trái là Tây Lan Đường giành cho nữ giới.
Chùa chủ trương an chay nhưng tu sĩ không cạo đầu, không mặc áo nâu sồng, sản xuất tự lực để bảo đảm cuộc sống trọn vẹn đường tu. Năm 1991, chùa được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Chùa Hội Linh từng một thời nuôi chứa cơ sở hoạt động cách mạng, trở thành địa chỉ đỏ được công nhận di tích lịch sử văn hoá năm 1993. Chùa được xây dựng năm 1907 trên diện tích một héc-ta tại thôn Thái Bình, Tổng Định Bảo, nay là phường Bùi Hữu Nghĩa. Trước đây, chùa có tên là Xẻo Cạn do có con rạch cạn trước cửa nhưng nay đã bị lấp. Năm 1914, chùa mới có tên là Hội Linh Cổ Tự.
Nét độc đáo của chùa là sự lưu giữ bố trí khá nhiều hiện vật cổ rất có giá trị giữ gìn bản sắc văn hoá Việt như: trình tự sắp xếp mai, lan, trúc, sen, hồng hay long, quy, phụng, hươu...
Ấn tượng nhất là bộ binh khí 16 món vũ khí sáng choang, 66 bức tượng các loại bằng gỗ, xi-măng, thạch cao, đồng, bàn ghế cẩn xà cừ; các cột gỗ có đường kính 25 cm được bào bóng loáng...Chính điện của chùa thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tượng Phật, trước và sau có miễu thờ thổ thần, có ao sen, bảo tháp...
Từ năm 1941 đây là địa chỉ đỏ nuôi chứa cán bộ cách mạng hoạt động nội ô Cần Thơ, tiếp đón, phục vụ trên 200 gia đình đến thăm nuôi chiến sĩ ta bị tù đày tại trại tù của địch. Đặc biệt, năm 1941, để bảo vệ an toàn cán bộ ta, hoà thượng trụ trì đã đốt cháy một phần chánh điện (sau này đã được trùng tu).Chùa Hội Linh còn là địa chỉ tổ chức nhiều hoạt động xã hội từ thiện như: giúp đỡ người nghèo, học sinh gặp khó khăn có đủ điều kiến đến trường, xây dựng nhà tình thương, chỗ nghỉ và ăn uống cho các sĩ tử đến Cần Thơ dự thi đại học, cao đẳng hằng năm. Đây còn làm điểm để sinh hoạt giáo dục truyền thống cách mạng cho rất nhiều thanh - thiếu nhi tại địa phương.
Chùa Long Quang có từ thời Vua Minh Mạng thứ 5 (năm 1825). Chùa nằm trên khu vực Bình Nhựt B, phường Long Hoà, quận Bình Thuỷ, TP Cần Thơ, cách trung tâm TP Cần Thơ khoảng 10 km. Chùa lúc đầu là một am nhỏ được nhà sư Võ Văn Quyền tự lập, đến năm 1835 phát triển thành ngôi chùa đặt tên “Long Trường Tự”.
Năm 1860-1861 tên chùa đổi lại là Long Quang Tự. Năm 1966 xây dựng lại và đổi tên chùa là “Long Quang Cổ Tự”. Long Quang Cổ Tự tính đến nay đã trải qua 180 năm, là công trình kiến trúc nghệ thuật tôn giáo cũng như nhiều ngôi chùa khác, nhưng bên trong nội thất có hệ thống tượng Phật bằng gỗ được chạm trổ rất độc đáo. Tiêu biểu là nhóm tượng Phật La Hán được coi là nhóm tượng quý, đẹp, được cấu trúc, bố cục hài hoà, vững chắc trên chất liệu gỗ, là công trình điêu khắc mang tính riêng, lạ và độc đáo.Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Long Quang còn là nơi nuôi chứa, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ hoạt động ở vùng ven và ngoại thành Cần Thơ. Ngày 21/6/1993, chùa Long Quang được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
- Theo Triệu Mỹ Ngọc (báo Cà Mau), ảnh internet
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013
Ăn cá hanh tại Hòn Heo
Cá hanh là một trong số các loài cá biển* được ngư dân miền duyên hải thường dùng để nướng và chiên những khi muốn thưởng thức hoặc đãi khách quý.
Vì thuộc họ cá chép nên cá hanh có hình dáng tựa cá chép, mập mạp, màu lớp vảy xanh lục ô liu, sẫm hơn phía trên lưng và gần như màu vàng kim phía dưới bụng. Vây đuôi có tiết diện gần như hình vuông. Miệng cá hanh khá hẹp, mép có sợi râu mảnh. Hai mắt cá hanh có màu đỏ cam. Vảy cá hanh nhỏ, gắn sâu vào lớp da dày, khiến mình cá rất trơn, giống cá chình, lươn hay cá trê. Chính chất nhờn này một khi cá hanh chạm vào thân cá khác bị bệnh sẽ “chữa” con cá này hết bệnh. Vì vậy người ta còn gọi cá hanh là “cá bác sĩ”.
Ở Hòn Heo (Kiên Hải, Kiên Giang), có nhiều cá hanh sinh sống trong các bãi bùn quanh hòn. Khi đánh bắt được cá hanh, các ngư phủ nơi đây thường dùng để nướng hoặc chiên.
Cũng như các món cá nướng khác, cá hanh nướng được thực hiện khá đơn giản. Người ta mổ bỏ nội tạng cá hanh, để nguyên vảy, rửa sạch, để ráo rồi cho lên bếp lửa than đỏ rực. Cá chín mặt này thì trở sang mặt khác.
Khi mình cá hanh toát ra mùi thơm, người ta chỉ việc đặt cá lên chiếc dĩa lớn dọn ra bàn cùng một số rau và một chén nước mắm trong giằm trái ớt xiêm hoặc một chén muối ớt chanh. Vậy là cả nhà quây quần, cùng nhau thưởng thức món ngon tuyệt. Càng thống khoái hơn khi thưởng thức cá hanh nướng với những ly rượu gạo chính gốc ngọt lịm đầu môi.
Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, người miền biển Hòn Heo thường dùng cá hanh để kho. Cũng như các món cá kho khác, cá hanh được làm sạch nội tạng, để nguyên vảy, rửa sạch, để ráo, ướp sơ gia vị. Bắc nồi nước đun sôi, nêm nếm gia vị thì thả cá hanh vào. Nước sôi vài dạo, nêm nếm gia vị vừa ăn thì rắc hành lá xắt nhỏ lên, múc ra dĩa, rắc tiêu bột làm mặt. Mùi hành lá chín tới cùng mùi tiêu bột thơm nồng cánh mũi như mời thực khách bắt tay vào một bữa cơm nồng ấm thân tình.
Trong những ngày mưa gió tầm tã hay những bữa trời lành lạnh cuối năm, cá hanh nướng, cá hanh chiên ăn đã ngon, người ta còn rất khoái khẩu với món cá hanh nấu ngót. Để nấu ngót, cá hanh được làm sạch, để ráo, ướp sơ gia vị cho thấm. Cà chua rửa sạch, xắt làm sáu hoặc làm tám, tùy trái lớn hay nhỏ. Rau cần tàu rửa sạch, cắt khúc. Hành lá rửa sạch, cắt khúc. Tất cả đã sẵn sàng. Bắc nồi nước lên bếp lửa đỏ. Nước sôi, thả cá hanh vào, nêm nếm gia vị vừa ăn, khi thịt cá vừa chín tới thì cho cà chua xắt miếng và rau cần tàu vào. Sau cùng, cho hành lá xắt khúc vào, trộn đều trước khi rắc tiêu bột lên mặt.
Thử tưởng tượng trong cái không khí se se lạnh của buổi chiều mưa dầm, cả nhà cùng bên nhau vừa ăn những chén cơm nóng hổi, vừa thưởng thức món cá hanh nấu ngót thì còn gì hạnh phúc bằng. Thịt cá hanh ngọt lại thấm đẫm gia vị càng thêm quyến rũ.
Ngon nhất là mùi rau cần tàu với mùi thơm đặc trưng của nó. Lại còn vị cay nồng ấm của những hột tiêu xay khiến cơ thể con người như xóa tan đi cái lạnh của tiết mùa. Nhưng sướng nhất là húp từng muỗng nước ngót cá hanh. Vậy là nồi cơm to lớn đã được cả nhà vét sạch.
* Cá Hanh là loài cá vừa sống ở nước lợ, vừa sống ở biển - Dân miền Nam còn gọi là cá Tráp.
- Theo Phương Kiều (Hậu Giang online), internet.
Vì thuộc họ cá chép nên cá hanh có hình dáng tựa cá chép, mập mạp, màu lớp vảy xanh lục ô liu, sẫm hơn phía trên lưng và gần như màu vàng kim phía dưới bụng. Vây đuôi có tiết diện gần như hình vuông. Miệng cá hanh khá hẹp, mép có sợi râu mảnh. Hai mắt cá hanh có màu đỏ cam. Vảy cá hanh nhỏ, gắn sâu vào lớp da dày, khiến mình cá rất trơn, giống cá chình, lươn hay cá trê. Chính chất nhờn này một khi cá hanh chạm vào thân cá khác bị bệnh sẽ “chữa” con cá này hết bệnh. Vì vậy người ta còn gọi cá hanh là “cá bác sĩ”.
Ở Hòn Heo (Kiên Hải, Kiên Giang), có nhiều cá hanh sinh sống trong các bãi bùn quanh hòn. Khi đánh bắt được cá hanh, các ngư phủ nơi đây thường dùng để nướng hoặc chiên.
Cũng như các món cá nướng khác, cá hanh nướng được thực hiện khá đơn giản. Người ta mổ bỏ nội tạng cá hanh, để nguyên vảy, rửa sạch, để ráo rồi cho lên bếp lửa than đỏ rực. Cá chín mặt này thì trở sang mặt khác.
Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, người miền biển Hòn Heo thường dùng cá hanh để kho. Cũng như các món cá kho khác, cá hanh được làm sạch nội tạng, để nguyên vảy, rửa sạch, để ráo, ướp sơ gia vị. Bắc nồi nước đun sôi, nêm nếm gia vị thì thả cá hanh vào. Nước sôi vài dạo, nêm nếm gia vị vừa ăn thì rắc hành lá xắt nhỏ lên, múc ra dĩa, rắc tiêu bột làm mặt. Mùi hành lá chín tới cùng mùi tiêu bột thơm nồng cánh mũi như mời thực khách bắt tay vào một bữa cơm nồng ấm thân tình.
Trong những ngày mưa gió tầm tã hay những bữa trời lành lạnh cuối năm, cá hanh nướng, cá hanh chiên ăn đã ngon, người ta còn rất khoái khẩu với món cá hanh nấu ngót. Để nấu ngót, cá hanh được làm sạch, để ráo, ướp sơ gia vị cho thấm. Cà chua rửa sạch, xắt làm sáu hoặc làm tám, tùy trái lớn hay nhỏ. Rau cần tàu rửa sạch, cắt khúc. Hành lá rửa sạch, cắt khúc. Tất cả đã sẵn sàng. Bắc nồi nước lên bếp lửa đỏ. Nước sôi, thả cá hanh vào, nêm nếm gia vị vừa ăn, khi thịt cá vừa chín tới thì cho cà chua xắt miếng và rau cần tàu vào. Sau cùng, cho hành lá xắt khúc vào, trộn đều trước khi rắc tiêu bột lên mặt.
Thử tưởng tượng trong cái không khí se se lạnh của buổi chiều mưa dầm, cả nhà cùng bên nhau vừa ăn những chén cơm nóng hổi, vừa thưởng thức món cá hanh nấu ngót thì còn gì hạnh phúc bằng. Thịt cá hanh ngọt lại thấm đẫm gia vị càng thêm quyến rũ.
Ngon nhất là mùi rau cần tàu với mùi thơm đặc trưng của nó. Lại còn vị cay nồng ấm của những hột tiêu xay khiến cơ thể con người như xóa tan đi cái lạnh của tiết mùa. Nhưng sướng nhất là húp từng muỗng nước ngót cá hanh. Vậy là nồi cơm to lớn đã được cả nhà vét sạch.
* Cá Hanh là loài cá vừa sống ở nước lợ, vừa sống ở biển - Dân miền Nam còn gọi là cá Tráp.
- Theo Phương Kiều (Hậu Giang online), internet.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
Bài đăng phổ biến
-
K hi đi phượt, hành trang không thể thiếu là chiếc ba lô chứa hành lý và máy ảnh. Dĩ nhiên, hành lý của chính bạn không nên do nguyên nhân ...
-
T hái Nguyên là một tỉnh nằm liền kề với Hà Nội, có địa hình chủ yếu là đồi núi, sông, suối xen kẽ với những đồng bằng nhỏ. Chính địa hình n...
-
K hi nói đến du lịch sinh thái ở Đà Nẵng, chắc chắn nhiều người sẽ nghĩ đến những con suối tuyệt đẹp mà thiên nhiên đã ban tặng cho thành ph...
-
(Tiếp theo) - T ừ cửa khẩu, bọn mình quay trở về đường cũ chừng 2km là đến ngã ba. Sừng sững trước mặt là Thạch Động nằm sát bên đường lộ,đâ...
-
T rải dài qua địa phận 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang, Vĩnh Tế là con kênh đào dài nhất mang ý nghĩa và tầm nhìn chiến lược do nhà Nguyễn thự...
-
S inh thời, nhà văn Sơn Nam luôn được nhiều người thắc mắc những chuyện ông viết có thiệt hay hư cấu. Ông chỉ cười, nụ cười hàm chứa nhiều ẩ...
-
Đ ền Thánh Sa Châu (còn gọi là Nhà thờ Giáo xứ Sa Châu) tọa lạc tại Giao Thủy, Nam Định. Sa Châu là đền thánh thứ 3 trong giáo phận Dâng kín...
-
N gã ba Đông Dương (thuộc xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum) là vùng đất được mệnh danh là “một tiếng gà gáy sáng cả ba nước Việt Nam, L...
-
Đ ể tới được nơi gắn liền với cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông – danh y Lê Hữu Trác không phải quá khó , từ đường quốc lộ 1A rẽ vào cũng được...
-
A i đã từng ăn món mắm sống với khoai lang nấu xin hãy thưởng thức thêm món ba khía với khoai lang để tận hưởng hết mùi vị đặc trưng của hươ...





















+sua.jpg)





















